ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT
(Tuỳ bút chính trị - 2006)
Nguyễn Khải
1.
Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm,
đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc
cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc
nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì
trong cái nửa trang vừa đọc. Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi
đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã
tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng.
Rồi quyết định ra chơi ngoài Bắc, trở lại quê ngoại là nơi tôi đăng
ký tòng quân năm 1946, cũng là nơi tôi tập tọng viết những bài báo
kháng chiến đầu tiên in litô vào năm 1949. Nó mở đầu cho nhiều chục
năm tiếp theo, vừa là anh bộ đội vừa là nhà báo nhà văn. Cái thị xã
quạnh quẽ, tơi tớp, tối tăm, toàn một màu xanh và đen những năm nào,
giờ đã biến hoá thành một quận của Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay. Lại
nhớ tới những dãy phố ngắn ngủi, nhà thấp, hè hẹp, rợp bóng nhãn,
mặt người hiền lành, dáng đi thong thả, thị xã như cái làng lớn, đi
một đoạn đường phải chào hỏi không biết bao nhiêu là người vì toàn
người quen cả. Năm chục năm sau, trở lại cái thị xã của tuổi mới
trưởng thành, mà là trở về lần thứ ba (hai lần trước cách đây đã hơn
hai chục năm) , cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả
ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở
tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười
tám đôi mươi. Lần về thứ hai vẫn còn ba người quen cũ, một người là
Thuận, đại tá về hưu, một người là Tùng, trung đội phó, một người là
Mễ, tiểu đội trưởng là những cấp chỉ huy đầu tiên của tôi trong cuộc
sống quân ngũ. Lần này về gặp anh Thuận, cũng là ông chủ báo đầu
tiên của tôi, anh hơn tôi vài tuổi. Còn hai người kia đều mới mất ở
tuổi ngoài bảy mươi cả. Đường phố không quen, mặt người không quen,
còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông
đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp
gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là
chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước.
Cũng buồn nhỉ? Chuyện người già có vui bao giờ, người
đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui. Vì tôi là người có
gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép.
Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc.
Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to,
lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình
để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi
sau mình. Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải
là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang
bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo
của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ
đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh
tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự
tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng
giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân
trong tỉnh. Thật vậy sao?
Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng
giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ
rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo,
có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút
thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả
hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một
anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã
ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. Có một buổi tối có một
anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn
nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa,
hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không,
thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không,
mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ
tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà,
tạt qua chốc lác rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch
xã. Lại một ngạc nhiên nữa! Mấy ngày sau lại về một xã thuộc phía
Bắc tỉnh. Cách đây đã ba chục năm tôi đã đi đi về về xã đó khoảng
một năm để viết về một anh chủ tịch xã chưa tới ba mươi tuổi trong
cái thời có cao trào lập hợp tác xã nông nghiệp. Ngồi chơi ở phố
huyện kề liền xã bất ngờ lại gặp người quen cũ của mấy chục năm
trước. Hiện giờ ông ấy đã ngoài sáu chục tuổi, có cửa hiệu chụp ảnh
ở ngay phố, to béo, rềnh ràng, chuyện gì cũng biết, lại biết cách
thuật lại về mọi cái biết của mình một cách sống động, tươi rói,
nghe chuyện mà tưởng như chính mình cũng được chứng kiến. Nhà văn mà
gặp được một người như thế là có thể nghĩ ngay một cuốn sách sẽ
viết, viết cũng nhanh thôi, vì mọi vật liệu đã sẵn sàng. Bao nhiêu
chuyện sui sẻo, buồn bã của chuyến đi bất thần được đền bù quá hậu
hĩ nhân một lần gặp lại người quen cũ. Đang mừng khấp khởi liền bị
mấy ông xã nhảy vô phá đám, đi một bước có trưởng công an xã theo
một bước, vừa là người hướng dẫn vừa là người bảo vệ. Chỉ được trò
chuyện với người đã được xã giới thiệu và ăn ngủ tại nhà ông bí thư
xã. Nhưng tôi đâu có chịu thua hoàn toàn. Xuống cái xã bị ghẻ lạnh
thì tôi chơi với dân, viết về một ông nông dân bị giời hành, được
bạn bè khen là rất khá. Về cái xã được chiều chuộng quá mức tôi viết
được cái bút ký “Mất toi một cuốn sách”. Sang tuổi 70, mọi
hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết
lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh,
riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là
thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.
2.
Tôi là một đứa trẻ khi bước vào đời có nhiều điều
thua thiệt nhưng tôi đã biết níu chặt lấy thời thế mà leo dần lên.
Tôi nói thế chả phải vì cái thói cơ hội, thời này có mấy ai thích
nói mình thành tài là nhờ cách mạng. Nhưng có nhiều người được cách
mạng ôm hẳn vào lòng nâng niu, vỗ về mà vẫn không nên người thì sao?
Là vì họ còn thiếu một yếu tố nữa, thiếu cái đó dầu họ có được bước
trên thảm đỏ, kẻ nâng người dắt một đời vẫn không ra con người tử
tế. Mà tôi thì có, có dư thừa. Ấy là cái tính hài hước bẩm sinh,
trước hết là biết giễu mình, theo dõi từng bước đi, từng câu nói của
chính mình bằng cái nhìn của người khác vừa nghiêm khắc vừa bỡn cợt.
Sau mình đến người, tôi cũng hay nhìn ra cái khía cạnh buồn cười ở
người khác dầu họ xuất hiện dưới cái vỏ trang trọng đến thế nào. Cái
buồn cười là cái trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói
chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống
hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất. Nếu tán rộng ra thì còn vô vàn
chuyện buồn cười mà ta bắt gặp ở mọi nơi, trong mọi thời gian của
cuộc sống. Anh dốt thường làm ra vẻ thông thái, thằng nhát rất thích
xuất hiện như người anh hùng, một chính khách đầu óc rỗng tuếch luôn
tỏ ra uyên bác bằng những lời nói vô nghĩa. Nếu những người đó có
được một chút hài hước, có khả năng tự ngắm mình trong khi diễn trò
thì họ sẽ biết cách tự kiềm chế trong một giới hạn nào đó.
Muốn có cái mình không thể có không chỉ là chuyện
buồn cười mà còn là căn bệnh không thể cứu chữa của nhân loại. Các
triết gia, giáo chủ cũng không thoát khỏi cái trò cười ấy. Họ muốn
cho nhân loại cái họ không thể có, muốn cứu nhân loại bằng những
phương tiện nhiều lắm chỉ đem lại mê say tự huyễn hoặc mà thôi. Học
thuyết xã hội hay tôn giáo khôn ngoan phải là học thuyết mở, có thể
là thế này mà cũng có thể là thế khác, luôn luôn biến hoá, lấy sự
biến hoá của thời thế và con người làm mục tiêu tối thượng để tự
điều chỉnh. Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng
nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của
thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết
vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó
đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý,
cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán
đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán
được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi
lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh
xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản
tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng
có một chút giá trị gì.
3.
Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất
vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười. Một học
thuyết không thể chứng minh sự đúng đắn của nó trong thực tiễn thì
trước sau sẽ biến thành tôn giáo. Vì tôn giáo là niềm tin, là thói
quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân
lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải
bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh
mọi sự truyền nhiễm có thể. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn
giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ
thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống
cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh
của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói
của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc
gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi
cái bóng che ấy. Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người
hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các
công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương
khói của đền đài. Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng
sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm
việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để
suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình. Người cộng sản
sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời
quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của
các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng
các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài
ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có
thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự
nghiệp vĩ đại của quần chúng. Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học
và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của
riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệp của bản thân để
nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách
nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao
nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và
trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình
trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh. Mất những cái đó thì
còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi
nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức
hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng
có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý
nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm
làng, với xã hội. Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái
nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp
chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định,
cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất
chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành
những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho
nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột
ngay từ những năm còn trẻ.
4.
Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt
Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình
để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống
cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn
liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu
chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo.
Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi
trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng
là một tai hoạ khôn lường. Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể
sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến
tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của nhiều cái đầu
chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều
cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối
phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể
bị đổ vỡ. Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính
quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ
khác nhau trong một cộng đồng: dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện
sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc
lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái
mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do
có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao?
Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói,
dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình
là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào
dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền
thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ? Làm loạn
không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng
đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị
những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen,
thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi.
Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng
tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có
nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi
chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày.
Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu
làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận,
không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn
tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành
mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời. Cái tiêu
chuẩn mới có tên gọi là “mặc kệ nó”. Nó
là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có
quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một
thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại
mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con
người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự
thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc
đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố
tiền phong của nó. Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự
nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa
thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại
những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân
chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga
Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục,
mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn
cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời
gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới
giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có
thể đơm hoa kết trái được.
5.
Một đất nước bị xâm lược, rồi bị nô dịch, dân chúng
thành nô lệ không được pháp luật che chở, làm người cũng khó nói gì
tới ý thức cá nhân trong mỗi con người. Ý thức cá nhân là ý thức về
cái riêng biệt của mình, về cái có thể cống hiến của mình cho cộng
đồng không giống với một ai do có một cách cảm nhận riêng, một cách
suy nghĩ riêng, từ đó… Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận,
được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa
người với người tương đối tốt đẹp. Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn
có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu,
bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiền đang làm
mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn
các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi
mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn
những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng
một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản.
Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao? Chả có ai kêu
ca gì. Nhà văn là người có trách nhiệm chăm lo cuộc sống tinh thần
của đồng loại cũng không kêu. Có một nhà văn Nga [Vladimir
Dudinzev /
Владимир
Дудинцев
- chú thích của Diễn Đàn]
viết cuốn sách Người ta không chỉ sống bằng bánh mì [Не
хлебом единым
- chú thích của Diễn Đàn]
bị cả giới văn nghệ Liên Xô phê phán. Ông đã viết sai vì các nước xã
hội chủ nghĩa rất coi trọng cuộc sống tinh thần của các công dân. Họ
đọc sách rất nhiều, trên xe điện, xe buýt, trong công viên, đứng xếp
hàng từng dãy dài mua thực phẩm, mua vé xem vũ kịch, nghe âm nhạc họ
đều mở sách đọc rất chăm chú, tưởng đâu như cuộc sống đích thực của
họ là ở các trang sách. Chỉ có những giây phút chìm đắm trong sự đọc
họ mới có cơ hội ngẫm nghĩ về thân phận của mình, của đồng loại, tìm
lại cái bản gốc cá nhận đang lưu lạc ở một góc khuất nào đó của
riêng mình. Rời khỏi trang sách là rơi ngay vào vòng quay của trăm
ngàn công việc chả có nghĩa lý gì ngoài sự mưu sinh để tồn tại.
Những ngày nghỉ, những giờ tạm gọi là rảnh rỗi họ cũng không được
ngồi một mình, ngẫm nghĩ một mình, có bao nhiêu buổi lễ kỷ niệm lớn
nhỏ, những phong trao cam kết thi đua và vô vàn cuộc họp của ngành
của giới đã choán hết phần thời gian còn sót lại… Cuộc sống tập thể
đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá
nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù
rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế dộ bằng vũ trang, hay bằng diễn
biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ
quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên. Lúc nào cũng phải đề phòng,
phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn
bè. Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự
do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm
thơ được!
6.
Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được
những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện
ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các
tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm
ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta
tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học
của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn
tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn
trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương
mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ
mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và
trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm
đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân
và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề,
không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu
cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp
méo hoặc bác bỏ. Mà giải thích về nó cũng rất đơn giản. Chế độ tư
bản của Pháp và Châu Âu tiến bộ hơn, văn minh hơn chế độ phong kiến
tập quyền của Châu Á tới vài thế kỷ, là khoảng cách giữa hai thời
đại, nói như cụ Phan Chu Trinh. Thời Pháp thuộc bọn thực dân chỉ
cấm, bỏ tù, xử bắn những người dám chống đối nó, trước hết là những
người cộng sản. Cuộc sống của dân chúng vẫn lầm than như thời xưa,
như thời phong kiến, khổ nhất vẫn là nông dân, nhưng xã hội có thêm
nhiều nghề mới do công cuộc khai thác tài nguyên ở thuộc địa, hình
thành dần nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, có đô thị và các trung tâm
buôn bán, có các đường lớn xuyên quốc gia và liên tỉnh, có cầu cống
và đường sắt, có báo hàng ngày, có tuần báo và tạp chí. Tiếng nói
của công chúng sau nhiều thế kỷ câm bặt đã được cất lên bày tỏ thân
phận và nguyện vọng của mình, dẫu còn yếu ớt nhưng đã gây được tiếng
vang trong cả nước. Dầu xã hội phát triển một cách nhem nhuốc, đau
đớn nhưng vẫn hơn cái thời tù mù, tối tăm của thời phong kiến. Thời
thế là vị tư lệnh tối cao, không có học thuyết nào, một thiên tài
chính trị nào dám chống lại những mệnh lệnh của nó. Dám chống lại nó
học thuyết sẽ tiêu tan, các chính khách thì thân bại danh liệt. Chế
độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó
vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững
cho những xứ sở nó đô hộ. Còn những vương triều phong kiến dẫu được
cai trị bởi các bậc minh quân thánh trí vẫn là những xã hội hủ lậu
và thuộc về quá khứ. Tài giỏi như Khang Hy, Càn Long nếu còn trị vì
Trung Quốc tới cuối thế kỷ 19 mà không chịu thay đổi thể chế đã quá
cũ kỹ thì vẫn cứ thua, có khi còn thảm bại hơn vì lòng kiêu hãnh
bệnh tật của họ. Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu
xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ
hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá
nhân và của cả cộng động. Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong
non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước
chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không
thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của
một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo
hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người
riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. Còn thời bây giờ là
một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp
nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ,
kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ
quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về
hiện trang hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống
đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống
của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận
ra cái “bản lai diện mục” của chính họ.
7.
Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho
hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. Vì
trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng
tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những
cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền
tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng
lớp trí thức. Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì
đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như
quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc
quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học
thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã
được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ. Tôi
có một bà cô sống ở Hà Nội suốt thời Pháp tạm chiếm, là dân cũ của
Hà Nội, sau này giải phóng được một năm, bà than thở với tôi, nghĩ
rằng sống với cách mạng thì dễ mà hoá ra rất khó. Bà bảo chính phủ
gì việc lớn không lo toàn lo việc vặt, từ cách ăn mặc, cách yêu
đương, cách nuôi dạy con cái là những việc người dân tự biết cách
lo, tự biết cách học, lo không nổi thì đã có dư luận xã hội lo giùm,
từ cổ tới nay vẫn thế mà. Lại nói về những tín đồ trung thành của
chủ nghĩa Mác, những chiến sỹ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là
đám văn nghệ sỹ chúng tôi cũng “sống không dễ” trong sự viết lách.
Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng
chỉ có ba loại người được tôn vinh: công, nông, binh. Cái thế giới
mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu: đỏ là
quân ta, đen là quân địch. Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so
với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ
phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen
thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung
thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém
lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một
vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải. Một
nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều
mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa
các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa.
Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những
cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết
lối nào mà lần. Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng
quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu
có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được
giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ
mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa.
Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập,
toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ? Nghĩ lại
cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích
hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh
viễn, có hoạ rồ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc
về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái
kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra.
Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến
vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một
cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự
hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả
trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ?
Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm
nay đấy!
8.
Nhà văn Dư Hoa [Yu Hua,
余华,
chú thích của DĐ], một cây bút đang nổi của văn đàn Trung Quốc,
trong lời cuối sách của tiểu thuyết Huynh đệ (Nhà xuất
bản Công an Nhân dân, 2006), ông có viết đại ý, trong lịch sử thế
giới từ thời Trung Cổ đến thời hiện đại phải trải qua 400 năm. Còn ở
Trung Quốc từ thời cách mạng văn hoá, cả đất nước chìm sâu trong
bóng đêm trung cổ với thời bấy giờ với bao nhiên thay đổi đến chóng
mặt để đất nước Trung Hoa nhanh chóng bước vào đội ngũ các đại gia
của G8. Cái khoảng cách vời vợi giữa hai thời đại ấy đã được rút gọn
trong có 40 năm. Rằng hay thì thật là hay nếu chỉ nhìn vào toàn cục,
vào cả dân tộc. Nhưng nếu nhìn vào từng cá nhân, những cá nhân không
được chuẩn bị từ căn cơ trong lịch sử, trong văn hoá, trong truyền
thống và nhất là trong nhân cách làm người thì cái rút gọn trong mỗi
cá nhân sẽ dẫn tới đâu? Theo ý tôi (N. K.) là các cá nhân ấy sẽ rất
dễ bị GÃY khi gặp phải sóng to gió lớn. Vì cái lõi của nó chưa đủ
cứng, chưa đủ bền, chưa đủ những tố chất về di truyền, về giáo dục
(rất cần có thời gian) để ứng phó hữu hiệu với những thay đổi quá
nhanh của môi trường sống. Các nhà cách mạng thường chỉ nghĩ tới mục
tiêu và những con đường ngắn nhất nhanh nhất để đạt được mục tiêu,
bất chấp các công dân của họ bằng lòng hay không bằng lòng. Và họ
lại tin một cách ngây thơ, một cách tệ hại rằng cứ ép là được, cứ
đẩy tới bằng các phong trào cách mạng của quần chúng là được, trước
lạ sau sẽ quen dần. Nhưng các cá nhân cũng là lòng người không thuận
thì mọi chủ trương dẫu hay đến mấy sớm muộn cũng bị đào thải, chả để
lại một dấu vết tích cực nào. Và càng lạ hơn là những tổ chức kinh
tế được xem là lạc hậu, là phản động của một thời vẫn có muôn vàn cơ
hội để tái sinh và xem ra còn tồn tại rất lâu dài.
Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt
Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của
một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non
một thế kỷ. Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề
có chân móng. Nó được xây trên cát. Mọi thay đổi lớn đều dựa vào
phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có
tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép
buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp
trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu
Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng
sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông
André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt
tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và
vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ
và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường
cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong
tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ
bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau.
Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn
cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang
giấy là một xã hội không có chân móng. Các quốc gia cùng sống với
nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài
thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng
dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước
mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác
không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên
giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. Rồi
tranh chấp đường ống dẫn dầu và các mỏ dầu, các căn cứ quân sự và
các vùng biển có hạm đội. Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự
trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết
Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót
tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên
vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như
thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù. Lúc giận nhau
thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà
trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu
thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng
nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên
bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ
cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia
vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các
nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước.
Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng
lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình
đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xã hội nào
nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có
may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự
hài lòng của mỗi cá nhân.
9.
Gần đây tôi có được đọc hai cuốn sách hay. Một cuốn là Bàn về
tự do của Stuart Mill, một triết gia người Anh viết
từ năm 1859, cách ta một thế kỷ rưỡi. Một cuốn là Tư duy tự do
của Phan Huy Đường, một nhà nghiên cứu học thuyết Mác có tên
tuổi ở Pháp viết vừa mới đây. Khoảng mươi năm nay tôi đọc tiểu
thuyết không vào, cả của ta, của Tàu lẫn Tây, cả sách mới dịch, mới
xuất bản, cả sách của các đại gia của những thế kỷ trước. Năm còn
trẻ đọc thấy hay, bây giờ già rồi nhìn trang sách cứ dửng dưng vì nó
không chịu ăn nhập vào những trải nghiệm cá nhân của tôi, không mở
ra trong tôi một cách tiếp cận mới với hiện thực, không làm bùng
cháy một điều gì đang còn ẩn sâu trong đáy tiềm thức khiến tôi phải
choàng thức chợt nhận ra một vỉa sáng tạo mới vừa thoáng xuất hiện.
Hai cuốn sách trên, một cuốn do bạn cho mượn, một cuốn tình cờ mua
được ở nhà sách vì cái tên của một tác giả tôi vốn quan tâm. Tôi đọc
say mê cả hai cuốn như thời trẻ được đọc một cuốn tiểu thuyết hay,
tất nhiên là khó đọc hơn tiểu thuyết nhưng đã thích lại có trải
nghiệm bản thân hướng dẫn, không hiểu được đầy đủ thì cũng hiểu được
cái đại thể. Nhiều ý của bài viết này là được cảm hứng từ hai tác
giả đó.
Năm tôi 60 tuổi, khi viết về một bà cô đã ngoài tám chục mà còn rất
minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, bà vẫn giữ được tính cách riêng
mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan
hệ ngoài xã hội. Tôi đã viết nếu bà cụ được trời cho chứng sống đến
trăm tuổi mà vẫn còn sáng suốt ắt hẳn bà sẽ biết mọi bí mật của then
máy tạo hoá. Thật ra là tôi nói về tôi đấy, có hơi bốc đồng nhưng
tôi tin là tôi sẽ biết được con người nhiều hơn nếu tôi được sống
lâu hơn, không cần trăm tuổi, chỉ cần 90 là đủ, miễn là vẫn giữ được
một cái đầu bén nhạy như bây giờ, sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ
như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình. Năm ấy tôi đã hiểu ra mọi
sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại. Các cuộc
cách mạng xã hội ở nước ta trong suốt ba chục năm đều hỏng cả, đều
phải làm lại từ đầu, tất nhiên là theo hướng khác, mà kết quả vẫn
vừa chậm vừa dây dưa. Nguyên do là các nhà lãnh đạo muốn rút gọn
những công việc của trăm năm thành chuyện chỉ làm trong mấy năm. Vì
họ chưa hiểu đầy đủ con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường,
cái cuộc sống không có chiến tranh, không có cách mạng xen vô, cái
cuộc sống trôi đi lặng lẽ của muôn đời. Nghĩ rằng người Việt Nam của
hôm nay đã khác nhiều với người Việt Nam trước năm 1945 là một cách
nghĩ rất thiển cận, tự gây cho mình nhiều ảo tưởng trong việc trù
liệu những việc phải làm để kiến tạo một xã hội dân chủ và văn minh.
Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều
chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ
các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và
đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để
nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà.
Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự
nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật lòng yêu mến,
ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc
về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của
Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết
đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải
đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ
mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân
còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất
mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với
nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã
thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần
làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài. Mao Trạch Đông cũng
thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm
việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem
ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu. Người dân ở đâu cũng thế,
đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia
đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không
có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong
các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi
từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả
lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không
dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá
rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn
biết đằng nào mà sống. Vả lại các cuộc cách mạng ấy chả đem lại bất
cứ lợi lộc nào, cho bất cứ giai cấp nào. Chỉ có những mất mát thôi,
người giàu thì mất cơ nghiệp được kiến tạo từ nhiều đời, người nghèo
thì mất những chỗ dựa cạy, có thể mất cả công việc kiếm sống mỗi
ngày để được làm chủ một cái rỗng không. Có thực mới vực được đạo,
đã đói ăn thì ngay đến cái tư cách làm người cũng không thế có nói
gì đến đạo. Thành thử cái chủ trương rất quyến rũ, rất “văn nghệ”,
nhất là với giới tri thức, của chủ nghĩa Mác “cải tạo thế giới, cải
tạo con người” hoá ra chuyện không đâu, nói cho vui, bây giờ người
ta cũng hay nhắc đến để chế giễu một học thuyết xã hội chứa đầy
những hoang tưởng.
10.
Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích
máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên
các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang
nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay
đổi. Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn”! Văn chương do con người
làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc
nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn
trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ.
Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa
mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái
quyền ném sách vào lửa. Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn
chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. Vả lại
chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành
thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ
trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người
sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi
với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả,
cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta
khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những
kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng
ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới
tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới
lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm,
và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay
đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học
thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời
thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói
quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình,
chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái
nguyên gốc. Tôi được biết có một cụ linh mục yêu nước và cấp tiến
được cách mạng tín nhiệm mời lên khu làm việc cho kháng chiến thời
đánh Pháp. Những khi ngồi một mình cụ vẫn rất buồn vì ở trong rừng
không có nhà thờ để cụ đi lễ và làm lễ. Cụ nhớ Chúa, nhớ bày chiên
và nhớ cả những lời nói của đấng chăn chiên với bày chiên trong công
việc của mỗi ngày. Khi cụ sắp mất cụ thiết tha yêu cầu được một linh
mục đang coi sóc một xứ đạo nào đó tới rửa tội và xức dầu Thánh cho
cụ. Lại một chuyện khác, khi tôi được tiếp xúc với một vị lãnh đạo
cấp cao của Đảng khi ông đang còn làm việc, quả thật tôi đã từng
nghĩ ông là con người kiểu mẫu của một xã hội tương lai, chả nói gì,
nghĩ gì về mình, tất cả cho tổ quốc, cho sự nghiệp, cho nhân dân.
Nhưng rồi ông bị mất chức vì không được bầu lại vào uỷ ban trung
ương của Đảng, một chuyện rất bất ngờ với nhiều người. Khi đại hội
công bố kết quả bầu cử, nghe nói ông đã oà khóc, rồi khóc thầm lén
tới mấy năm, không đi đâu cả, không gặp ai cả vì tự cho mình đã bị
sỉ nhục, đã mất hết danh dự. Lại là một con người khác, tầm thường
hơn cái lúc còn đeo tấm bài ngà rất nhiều. Con người mặc nhiều lớp
áo là con người giả, con người đã bị lột truồng mới là con người
thật. Con người đã bong một lớp sơn phủ kín chỉ còn trần lại cái lõi
của nó mới là thật. Cái vỏ có thể luôn luôn thay đổi nhưng cái lõi
muốn thay đổi phải mất có khi gần một đời người. Ấy là chỉ dám nói
là có thể thay đổi chứ không dám nói chắc là sẽ thay đổi. Chỉ vì con
người ta không chịu thay đổi theo những tiêu chuẩn đã được quy định
hoặc theo mức tăng trưởng thu nhập tính theo đầu người. Sự phát
triển của con người theo chiều hướng tích cực phụ thuộc rất nhiều
vào môi trường sống tự do và dân chủ để tự nó khẳng định chính nó,
tự nó đánh thức mọi tiềm năng sáng tạo đang nhen nhóm ở trong nó. Về
cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo
liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào.
Nó sẽ biết cách tự điều chỉnh để thích ứng dần với mối quan hệ mới
một cách có lợi nhất.
11.
Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết
Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức
mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận
của nhiều cá nhân. Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ
cộng hoà nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các
nước xã hội chủ nghĩa. Sống trong thể chế này suốt mấy mươi năm
không có một cuộc biểu tình nào được tổ chức để phản đối một chính
sách nào đó của nhà nước. Như thời làm cải cách ruộng đất hay thời
huy động nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp. Giám đốc xí nghiệp
nhà nước tham ô, mức sống của công nhân giảm sút cũng không có đình
công. Nông dân bị kẻ cường quyền đàn áp, làm nhiều việc trái pháp
luật, vừa mới nhen nhóm bày tỏ sự bất bình liền bị giập tắt ngay. Vì
người lãnh đạo đã nhận định rất đúng rằng, nhân dân ta rất tốt, rất
dễ bảo, bỗng dưng họ dám nói xược, dám đòi hỏi này nọ là do có mấy
thằng cán bộ về hưu bất mãn cầm đầu. Cứ nhắm mấy thằng đó mà đe, nếu
cần thì bắt là đâu vào đấy ngay. Quả nhiên thế thật. Tức là người
cầm quyền chả coi dân chúng vào đâu. Họ chỉ sợ các cá nhân hiểu
nhiều biết rộng, rất khó bắt nạt, là hay bày trò xúi giục thôi.
Giống hệt cái thời còn vua còn Tây, kẻ cai trị rất sợ người cộng sản
vì họ là kẻ hay gây rối. Đã là người cầm quyền với nước ta thì xưa
là thế nay vẫn là thế, người dân vẫn sống dưới chế độ chuyên chế chứ
chưa bao giờ được biết chế độ dân chủ là gì, đâu là dân chủ tư sản.
Đã chuyên chế là chuyên chế làm gì có sự phân biệt chuyên chế tư bản
với chuyên chế vô sản.
Người cộng sản rất kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nhưng lại
chính từ các nước xã hội chủ nghĩa mà cái tệ sùng bái cá nhân đã nảy
sinh. Vì lãnh tụ của học thuyết cũng là lãnh tụ của quốc gia. Họ lên
cầm quyền không do phiếu bầu mà do tín nhiệm sẵn có của các tín đồ
với giáo chủ. Giáo chủ là nhân vật tối linh, thuộc về thiêng liêng
nên những gì của thế gian không thể ràng buộc ông ta được. Ông ta
cầm quyền không có niên hạn vì ông phải phục vụ nhân dân cho tới lúc
chết. Ông không phải tự phê bình và cũng không ai dám phê bình ông
vì ông là biểu tượng của quốc gia, của Đảng cầm quyền, đứng trên
hiến pháp và mọi luật pháp. Ông là người tự do hoàn toàn so với
nguyên thủ các quốc gia dân chủ khác. Các cấp dưới từ trung ương tới
địa phương cũng là những người có nhiều tự do nhất ở các ngành, các
bộ và các địa phương họ cầm quyền. Là các lãnh chúa trong các lãnh
địa của họ. Chả ai dám xâm phạm nếu còn muốn giữ cho mình một chút
tự do cỏn con. Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa,
không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết
mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội
gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy
chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn
không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác
bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải
quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn. Năm đất nước
mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ
sỹ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát,
cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ,
sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói
cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải
canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả
của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng
một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê
một cục”. Giải thích chuyện này cũng chả khó, họ là sản phẩm của nền
kinh tế công nghiệp tư bản, dẫu là thuộc địa cũng vẫn thuộc hệ thống
tư bản, vẫn là những người đã được giải phóng khỏi nhiều ràng buộc
từ quá khứ trong cách nghĩ, trong cách làm. Còn mình là sản phẩm của
nền kinh tế nông nghiệp phong kiến, đâu đã được làm chủ nhân ông
nhưng cũng chưa từng được hưởng cái mùi vị tự do và dân chủ là thế
nào! Cái khoảng cách ấy có tính thời đại không thể bỏ qua mà cũng
không thể rẽ tắt. Mình cũng đã đi tắt suốt mấy chục năm, rất tiếc là
lịch sử không công nhận cái lối đi ấy. Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày
lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn
đánh lừa lịch sử!
12.
Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết
mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn,
giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên.
Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí,
như câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra!”, cứ đọc to lên là cánh cửa
vào tương lai sẽ mở toang. Các nước xã hội chủ nghĩa vẫn đọc to câu
thần chú ấy trong nửa thế kỷ mà cánh cửa vào tương lai vẫn đóng
chặt. Mất thiêng rồi chăng? Quả là đã mất thiêng vì người hô không
hề tin một chút nào vào cái khả năng kỳ diệu của nó. Nếu tin vào phê
bình và tự phê bình thì Stalin đã không chế ra các vụ án chính trị
man rợ để tiêu diệt các đối thủ vốn là tay trái tay phải của mình
trong những năm đó. Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông
đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ
dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói
về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ
quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp
lãng mạn đó cả. Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau
một cách sốt sắng giả dối. Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những
lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội
ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng
cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào. Bởi vậy khi
ông tổng bí thư của Đảng mới được bầu, trong cơn phấn khích đổi mới
sinh hoạt đảng, đã phát động một phong trào tự phê bình và phê bình
rộng khắp toàn đảng, các đảng bộ trong cả nước đều nhiệt liệt hưởng
ứng, đều nhắc lại với lòng nhiệt thành hiếm có trong các bài diễn
văn có đảng tính cao của họ. Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn
kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ
kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng
hung hãn, càng tự tin, còn người tố tội càng lúc càng dè dặt, hãi
sợ. Kỳ quái nhỉ?
Các tín đồ của học thuyết Mác đều rất tin môi trường xã hội và hoàn
cảnh cá nhân có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành tính cách con
người. Một địa phương có nhiều phong trào cách mạng tích cực ắt phải
sản sinh ra nhiều tập thể tốt, một tập thể tốt sẽ sinh ra nhiều cá
nhân tốt. Con người là một thực thể vật chất nên không thể thoát ly
những điều kiện vật chất đã cho phép nó tồn tại. Nhưng nó còn là một
thực thể sinh học, một thực thể tinh thần, tâm linh, văn hoá bao gồm
lịch sử cá nhân và dòng họ ở trong nó. Nó cũng không thể biết hết
nó, không thể biết hết những phản ứng bất thần trong chính nó khi
vấp phải những đối nghịch trong cuộc sống. Nên cái thế giới tinh
thần, tâm lý của con người là rất đa dạng, phức tạp, có muôn vàn lối
đi ngoắt ngoéo. Từ thời con người có ngôn ngữ để giao tiếp, có chữ
viết để lưu lại, có văn chương để bày tỏ những bí mật của riêng
rình, nó vẫn không ngớt than thở là chả biết được bao nhiêu về mình
và đồng loại. Con người vẫn nguyên vẹn là một bí mật mênh mông, sâu
thẳm như từ thủa nguyên sơ vậy. Người cộng sản phải kiêu ngạo lắm
mới dám bày cái trò chỉnh huấn phê bình để lãnh đạo một cách chuẩn
xác cái phần khó nắm bắt nhất trong con người. Vì nó biến hoá, nó
phù du như mây như gió vậy.
13.
Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài,
không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái
thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có
cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất
nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm
con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh
nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít
người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe
được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu
tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất
mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. Nhiều tập hồi ký
của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần còn
nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra
những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được
kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và
rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng
nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính
bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực
rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm
chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra
được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng
mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng
là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng
tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những
người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên
trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất
thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những
phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! Ông tổng bí thư đã mở một cuộc
chiến ảo nên ông cũng chỉ nhận được những kết quả ảo.
Một Đảng, một thể chế chính trị lấy phê bình và tự phê bình làm vũ
khí sắc bén để giải quyết mọi mâu thuẫn nội bộ, giả thử nó lại không
còn dùng được nữa thì các mâu thUẫn sẽ được hoá giải bằng cách nào?
Đảng đối lập không có, dư luận đối lập qua báo chí và các cuộc biểu
tình quần chúng cũng không có, vậy làm cách nào để biết và điều
chỉnh mọi sự rắc rối, thậm chí cả bạo loạn nữa nếu nó xảy ra? Vẫn có
cách, là phải tạo ra một tình hình chính trị luôn căng thẳng (một
cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn có thể xảy ra) để
buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt của thời
chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm
cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an.
Một để chặn, một để chống. Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra
thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những
kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây
dưa, phiền toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các
nước tư bản. Những rối loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí
của các nhà cầm quyền độc tài. Họ đâu có sợ loạn. Họ còn bày ra
những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay
một cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không
có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng
nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì!
14.
Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm
sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện,
những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể
có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về
những tiêng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu
tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc… Đời người là bể khổ, những
khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn
chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy
đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và
tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì
không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để
thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong
tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng
đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. Cũng may
đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con
người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng.
Còn hướng tới thiên đàng ư? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng
thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ,
không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ
những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để
làm ra triết học và thơ ca!
Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những
trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn
lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi
sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn
thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu
thành cơm. Còn thức ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn
mắm suốt mấy chục năm đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một
cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học
bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm
nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối
um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào
đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và
tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng
hay. Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh
để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và
viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi
đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể
nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn
nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu
chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi
đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí
tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ
béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong
tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng
tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết
con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt!
15.
Tôi có một tuổi thơ rất buồn, lại sống với những người có số phận
buồn nên mới 14, 15 tuổi đã nhìn đời như một ông già. Tức là một cái
nhìn không mấy lạc quan. Cái xã hội tôi đang sống không mấy hoàn
hảo, những người tôi gặp cũng không được hoàn hảo. Tôi quen thuộc
với những gì không hoàn hảo tới mức gặp những gì quá đẹp, quá chu
toàn tôi đều ngờ, đều sợ. Người truyền cho tôi cái nỗi sợ bẩm sinh
ấy là mẹ tôi. Bà đã qua một đời chồng rồi mới gặp được bố tôi. Đời
chồng trước mọi sự đều tốt đẹp, ông ấy còn trẻ, có địa vị trong xã
hội, nhà giàu, lấy nhau được một năm lại sinh con trai. Mà rồi chỉ ở
với nhau được ba năm phải bỏ. Đời chồng sau thì dở, dở cả mọi đằng.
Bố tôi cũng còn trẻ, làm tham biện ở phủ thống sứ, nhưng ông đã có
vợ và hai con nên phải làm lẽ và lấy giấu. Mẹ tôi bảo thế là đúng
số, là đã an phận, nhưng lại lo bố tôi sẽ bỏ khi cuộc ăn chơi này
gây thêm phiền phức cho cái gia đình chính thức của ông. Hai anh em
tôi là bản sao nguyên mẫu của bà. Những gì nhận được từ tuổi thơ mãi
mãi hằn dấu lên cho đến hết cuộc đời chúng tôi. Nhìn bên ngoài tôi
có tướng con nhà phong lưu nhưng cái ruột của tôi lại thuộc về con
cái của những gia đình nghèo, lại chả có thế thân gì nên rất biết
phận, cho thì nhận, không cho cũng không đòi, chỉ cầu không có ai
quấy nhiễu là mừng. Em trai kém tôi năm tuổi, lấy vợ muộn, về hưu
sớm, lúc trẻ thì thay anh hầu hạ mẹ, về già thì đi chợ nấu cơm, giặt
quần áo thay vợ chăm sóc các con. Cả đời chỉ biết cười, cái cười
nhẫn nhục, bằng lòng với những gì mình có. Tôi thì khác, một cuộc
sống bên ngoài ai cũng biết là khiêm tốn, nhẫn nại, ít làm phiền
người khác và chả dám gây sự với một ai. Nhưng cuộc sống bên trong
cũng có nhiều tham vọng, làm quan hay làm anh nhà giàu thì không dám
vì tôi không có bản lĩnh tiến thân bằng hoạn lộ hay kinh doanh. Tôi
chỉ có một ao ước duy nhất là được viết văn cho đến già. Với cái tài
tôi tự biết, tôi phải sống rất lâu và viết rất nhiều may ra mới được
một hai cuốn sách hay, mà cũng chỉ hay trong cái thời của nó chứ
không thể hay ở mọi thời. Tôi tự nhận tôi là người có một con mắt
bên trong và một cái tai bên trong từ nhỏ. Để quan sát, nghe ngóng
những người khác họ yêu mình hay ghét mình. Càng lớn tuổi cái khả
năng tự xét mình của tôi càng sắc nhọn. Và tôi đã nhận ra cái lợi
của phép giấu mình. Trang Tử đã nói: Con chim bay cao thì tránh được
tên, được bẫy, con chuột đào hang sâu thì tránh được cái hoạ bị khói
hun.
16.
Khi tôi nói, tôi sống và viết cũng thoái mải, vui vẻ trong một chế
độ chuyên chế về tư tưởng cứ như là người nói dối, lại nói dối một
cách trơ tráo, sống sượng. Nhưng đó là lời nói thật, không thật với
nhiều người nhưng với tôi là thật. Tôi được thay đổi số phận từ cuộc
cách mạng Tháng Tám năm 1945. Chín năm đánh Pháp với nhiều người là
rất dài, với tôi lại rất ngắn vì tôi được sống trong niềm vui, trong
những cái khác thường và cả trong nhiều hi vọng. Nhiều anh trong cơ
quan tuyên huấn của quân khu đều xuất thân từ các gia đình viên chức
nhỏ, địa chủ nhỏ, được ăn học đàng hoàng đến hết bậc cao đẳng tiểu
học đã có những thói quen, những nền nếp của cuộc sống thị dân từ
nhỏ. Họ rất thích quan sát những phản ứng của tôi khi phải đối mặt
với mọi thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến. Vì nhìn ngoài tôi như
một thư sinh con nhà quý tộc chưa từng biết cái thiếu cái khổ là gì.
Những việc làm rất tự nhiên của tôi đều được đánh giá phải có nhiều
nghị lực, nhiều quyết tâm mới làm được thế. Tôi vẫn sống như xưa
kia, ngày xưa thì bị chê bị chửi, bây giờ lại được khen, được tuyên
dương, người cứ lâng lâng như nhập đồng, còn biết cái thiếu là gì
cái khổ là gì. Nếu so sánh thì trước kia tôi chỉ là con số không,
còn bây giờ tôi đã có một cái tên ký dưới các bài báo, đã được nhiều
ông anh trong cơ quan nhờ vả, đòi hỏi, bực tức hoặc khen ngợi. Tôi
đã được tách ra khỏi đám đông để tự bằng lòng mình và có cả chút ít
“kế hoạch riêng” cho mình nữa. Còn các anh hơn tôi dăm bảy tuổi thì
đã có nhiều thứ để so sánh những cái “đã có” trước kia và cái “đang
có” bây giờ. Cái “đang có” của dân tộc thì nhiều, còn cái “đang có”
của cá nhân như chả còn được bao nhiêu. Những kiến thức lịch sử và
xã hội, triết học và văn chương xem ra phải bỏ đi quá nửa. Các quan
hệ giao tiếp xã hội được dạy bảo từ thuở còn thơ nếu dùng lại cứ
vênh váo, buồn cười thế nào trong hoàn cảnh kháng chiến. Sống tinh
tế, tôn trọng người khác là cách sống của anh tiểu tư sản. Lòng
thương người không đúng chỗ cũng được xem như biểu hiện của một tính
cách nhu nhược, không đáng tin cậy. Còn những câu đùa thông minh,
kín đáo ánh lên như một vệt sáng vui trong cuộc sống đơn điệu, tẻ
nhạt của mỗi ngày lại dễ bị đồng đội hiểu lầm là một cách chế diễu
của người có học với những anh em ít học. Qua mỗi cuộc chỉnh huấn
tầm vóc của mấy anh càng như nhỏ lại, mờ nhạt hơn, mất dần những vẻ
riêng, cái phần độc đáo riêng để nhập vào cái dòng chảy chung, vào
cách nghĩ cách sống của một tập thể bao bọc quanh mình. Đại để cái
riêng của mỗi chúng tôi đã bị cái chung nuốt dần như thế.
Tôi thì sao? Tôi đã có một may mắn lớn vì tôi thuộc
về số đông, một quần thể vô danh tồn tại âm thầm trong nhiều thế kỷ
dưới chế độ phong kiến. Cách mạng Tháng Tám đã nhất loạt giải phóng
họ ra khỏi thân phận nô lệ, tạo cơ hội cho họ phát triển những tài
năng riêng của mình, chủ yếu trong lĩnh vực quân sự để kịp thời phục
vụ những nhu cầu của kháng chiến. Số đông trong họ chỉ mới biết đọc
biết viết từ ngày vào quân đội nhưng học rất nhanh cách xây dựng một
quân đội hiện đại với những cơ quan phục vụ cho công việc tham mưu,
tác chiến, hậu cần vì họ đã có được một ông thầy lý tưởng là quân
đội hiện đại của đối phương với ông tướng lừng danh trong thế chiến
2 của nó. Trong chín năm đánh Pháp quân đội đã trở thành cái nôi đào
tạo, nuôi dưỡng nhiều nhân tài quân sự của thời hiện đại, cả những
tài năng văn nghệ phục vụ trong quân đội, nó là tổ chức tiên tiến
nhất của xã hội Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Trong chiến tranh
người chỉ huy quân sự là hình tượng đẹp nhất, lãng mạn nhất vì họ là
con người của hành động, của đảm bảo chiến thắng, luôn ở vị trí thứ
nhất, còn con người của học thuyết chỉ ở vị trí đứng sau, trong
nhiều trường hợp chỉ là cái anh bàn thêm, nói góp. Còn những năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội thì con người lý luận có nhiệm vụ bảo vệ sự
trong sáng của học thuyết chính thống ở hàng đầu được tôn trọng và
có quyền quyết định sự sống chết của nhiều người. Chính là trong
những năm này mới sinh ra nhiều vụ án chính trị và văn chương, nay
nghĩ lại vừa vô nghĩa vừa buồn cười nhưng thời ấy nó đã chôn sống
nhiều tài năng thực sự ở mọi lĩnh vực vì họ đã tỏ ra ngờ vực sự đúng
đắn của tư tưởng chính thống.
Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát
vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc
trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp
trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái
đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được
viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ
không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. Một dân
tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen,
mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật
dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải
phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do
và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ
cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại
phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!
Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền
muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến
bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải
viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà
lãnh đạo cách mạng yêu cầu.
17.
Những năm 50, 60 của thế kỷ 20, với tôi là những năm
tràn đầy niềm vui. Nhìn vào đâu tôi cũng thấy tôi được, dân tộc tôi
được. Nhưng cũng những năm ấy với hàng triệu người dân thường lại là
những năm đầy lo lắng, hãi sợ và tuyệt vọng. Tôi vui là chuyện có
thật, những trang viết của tôi vào những năm ấy là rất thành thật.
Nhưng nước mắt của người khác cũng là chuyện có thật, tôi có biết,
có được chứng kiến. Tôi nên nghiêng ngòi bút của tôi về phía nào. Về
già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm,
của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã
bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn
chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất
hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của
con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật
ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm
gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành
giàu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu
nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm
hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần
tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần
phi nghệ thuật. Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không
phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác
giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái
cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách
xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở
tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống.
Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối
chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại
miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải
nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.
18.
Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không
tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quý ti tiện lẫn lộn, các giá
trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu
kinh thánh Cựu ước “Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…”
(Au conmmencement était le Verbe). Ngôn ngữ làm nên văn minh
này, vì nó có thể lưu giữ và truyền lại toàn bộ kinh nghiệm của
nhiều đời trước cho nhiều đời sau, càng ngày cái khả năng nhận thức
càng gần đúng như nó có, khiến sự lựa chọn của con người khách quan
hơn, có hiệu quả tích cực trong quá trình chủ động thích ứng với mọi
đổi thay của môi trường sống và môi trường xã hội. Vậy mà ngôn từ
lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến
trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn
từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che
đậy, “nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ
mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói
của công dân của mọi chính quyền chuyên chế. Cái cách tự bảo vệ ấy
lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở
các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết
sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người
nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả
lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của
Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ,
ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và
cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh
giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy.
Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một
ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do,
về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn
người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần kiện liêm
chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước
tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói
không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói
quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời
hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là
tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình.
Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng
cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao
tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả
lẽ làm người lại không nói. Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả.
Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều
chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào
thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những
lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là
thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói
dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.
Trong hàng trăm cuốn hồi ký của các nhà văn hoá, của những người
hoạt động chính trị, của nhiều tướng lĩnh, ta chả biết được bao
nhiêu cái thế giới riêng của họ, cái thế giới cá nhân của họ. Cái
phần đóng góp của họ càng nhỏ thì cái ý nghĩa quyết định của tập thể
càng lớn, cái có tên thì bé tí xíu, vô nghĩa, cái không tên thì bao
trùm rộng khắp nhưng cũng không có hình thù rõ rệt, cứ mờ mờ mịt
mịt, có đấy mà cũng không có đấy, cái chung ấy chả phải chịu trách
nhiệm với một ai, có biết nó là ai mà truy cứu.
19.
Trong cái bối cảnh xã hội, chính trị như thế, mỗi người đều ít nhiều
đánh mất cái cá nhân của mình cũng là lẽ đương nhiên. Nhà văn là
chuyên viên nghiên cứu mọi chuyện của cá nhân, những sắc thái tâm lý
cùng với những biến hoá vô tận của nó trong những hoàn cảnh khác
nhau, những thời thế khác nhau. Nhưng đọc hồi ký của các nhà văn
cũng nhạt nhẽo lắm, họ chỉ phô diễn cái tôi trong các cuộc gặp những
bậc đàn anh và bạn bè trong nghề, nói toàn chuyện tào lao, vụn vặt,
chuyện sinh hoạt và chả đả động chút nào tới thời thế, tới những bức
xúc về thời thế và cái nghề của mình trong thời thế. Tính hiện thực
và tính lịch sử của một thời rất mờ nhạt, đơn giản, thành thử cái ý
nghĩa truyền đạt những giá trị đích thực của một thời tới các thế hệ
đến sau hầu như không có. Đó là điều rất đáng tiếc, vì nếu các chứng
nhân không nói gì cả thì lịch sử cũng không thể cất lên tiếng nói
chân thực của nó, thời gian qua đi, bóng tối phủ lên, quên lãng phủ
lên, cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của
các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con
người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng
liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân
tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với
sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói
đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.
Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh
cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các
nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở
lãnh vực khác. Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba
làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất
hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử
sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng
cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một
xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là
phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của
khu vực và thế giới. Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu
hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực
phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra
sao?
Hãy nhìn vào nước Nga những năm 90 của thế kỷ 20 là sẽ rõ. Họ vừa
thoát khỏi cái bóng che của chủ nghĩa chuyên chế để được nhìn cái
ánh sáng thật của dân chủ và tự do. Ai chả nghĩ họ đã có cơ hội sải
những bước chân dài khi đã bung phá mọi sự trói buộc. Nước Nga mãi
mãi là một siêu cường vì những thử thách lớn nhất của một dân tộc là
chiến tranh và cách mạng nước Nga đều đã trải qua mà vẫn tồn tại vì
đất đai mênh mông của mình và những tiềm lực vô hạn ẩn giấu trong đó
cả vật chất lẫn tinh thần. Phải vài chục năm nữa nước Nga sẽ là như
thế nhưng trước mắt thì không thể. Lý do rất đơn giản, kinh tế có
thể phục hồi nhanh nhưng con người phải có thời gian dài hơn nhiều
nó mới có thể lấy lại những gì đã mất. Tầm vóc cá nhân của người Nga
trong non một thế kỷ dưới chế độ Xô Viết đã bị co hẹp lại rất nhiều
dầu họ vẫn được sống, được học tập và lao động trong những điều kiện
của một xã hội văn minh. Chỉ đáng tiếc cái văn minh của họ là một
nền văn minh tự tạo tách khỏi nền văn minh nhân loại, dựa trên những
tiêu chuẩn mà tâm hồn Nga không thể chấp nhận, không thể tiến hoá.
Lại thêm trong non một thế kỷ người Nga đã mất dần thói quen suy
nghĩ độc lập, quyết định độc lập, mất dần cả tính cách phản kháng và
bảo vệ chân lý, con người quen sống trong đám đông, trong tập thể,
trong bầy đàn, không có cơ hội và sự khích lệ của xã hội để tạo ra
những chân dung riêng với những tư tưởng khác nhau, những triết lý
khác nhau những cách sống khác nhau. Mọi cái khác với chính thống
đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái
khác nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ
nghe theo, làm theo mọi mệnh lệnh. Người cai trị sẽ rất dễ chịu, rất
nhàn nhã nếu quốc gia mình cầm quyền được tổ chức giống như trại
lính, ông ta sẽ có dư thời gian để làm thơ hoặc viết tiểu thuyết,
vừa có cái bây giờ lại có cả cái sau này. Còn phải lãnh đạo một xã
hội dân sự của các công dân tự do thì có hàng trăm công việc đòi hỏi
phải được giải quyết mỗi ngày, mà cách thức giải quyết cũng rất phức
tạp, nó yêu cầu phải đối thoại, phải được tranh luận bình đẳng, phải
thương lượng, phải luôn luôn thay đổi những chủ trương mà dân chúng
không bằng lòng. Và mọi việc làm đều phải tuân theo hiến pháp và
được xã hội kiểm tra thông qua hệ thống thông tấn báo chí. Chẳng
những người lãnh đạo phải bị kiểm tra những công việc thuộc về chức
năng của họ mà còn bị theo dõi rất nghiêm ngặt mọi sinh hoạt thuộc
về đời tư của họ để ngăn chặn kịp thời những vi phạm thuộc về đạo
đức. Ở những xã hội văn minh thì người cầm quyền bị rất nhiều luật
lệ câu thúc, trói buộc, là người mất tự do nhiều nhất, còn dân chúng
thì được pháp luật bảo vệ đủ mọi đàng, càng ít bị trói buộc càng
tốt, càng có nhiều tự do càng tốt. Chỉ một xã hội được tổ chức như
thế thì vị trí cá nhân mới được tôn trọng, người có giá trị là người
có cái TÔI mạnh mẽ, đầy sức sống, đầy sáng tạo. Nên mỗi người đều có
ý thức vun trồng những nét đặc sắc của riêng mình, cái vẻ đẹp của
riêng mình và con của cháu thành những gia đình nổi tiếng, những
dòng họ nổi tiếng làm cột chống cho một quốc gia. Một chế độ độc tài
khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ
nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ
đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của
cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một
nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung
với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một
giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới
tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất thường, là
quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm
dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể
kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là
sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là
tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn
trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những
khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị
trí trang trọng trong hiến pháp hay không? Vì tiềm lực tinh thần của
mọi cá nhân được vun xới, được phát triển trong tự do là nền tảng
vững chắc nhất của mọi thiết chế chính trị. Vì còn nó ta có thể vững
tin sẽ vượt qua mọi sóng gió bất thần của thời thế để mãi mãi tiến
về phía trước.
Viết xong tại quận Bốn Thành phố Hồ Chí Minh ngày
27/5/2006
NGUYỄN KHẢI
Postest: TQS, 27/6/2012