30 thg 8, 2014

Có phải em mùa thu Hà Nội

Published on August 29, 2014   ·   No Comments
Một thi phẩm của tác giả Tô Như Châu.
3972804594_607a154987_b
Tháng Tám mùa thu lá khởi vàng chưa nhỉ
Từ độ người đi thương nhớ âm thầm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm
Có phải em mùa thu xưa.
Có bóng mùa thu thức ta lòng sang mùa
Một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Ngày sang thu anh lót lá em nằm
Bên trời xa sương gió bay.
Thôi thì có em đời ta hy vọng
Thôi thì có em sương khói môi mềm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Nghe đâu đây lá ướt và mi xanh
Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát.
Có chắc mùa thu lá rơi vàng tiếng gọi
Lệ mừng gặp nhau xôn xao phím dương cầm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Nghìn năm sau ta níu bóng quay về
Ôi mùa thu của ước mơ.

29 thg 8, 2014

Từ Dịch Thuỷ đến Tiền Giang.

Hơn 200 năm trước Công Nguyên, Tần Thuỷ Hoàng đã dựng lên một triều đài độc tài lớn nhất Trung Hoa. Nỗi sợ hãi về hình ảnh uy nghi quyền lực như thượng đế của Tần Doanh Chính làm khiếp đảm cả thiên hạ Trung Hoa mênh mông.  Bằng quyền lực tuyệt đối của mình, Tần Thuỷ Hoàng đã bắt dân chúng phải lập nên một dãy tường thành vạn lý, khiến bao người mất mạng vì đói rét, bệnh tật, kiệt sức khi xây thành. Thế nhưng toàn bộ Trung Hoa không có một sự phản kháng nào đáng kể.


 Kinh Kha người nước Vệ, đã nhận trọng trách ám sát Tần Thuỷ Hoàng. Trong lúc Tần Thuỷ Hoàng đang ở đỉnh cao của quyền lực tối thương.

Kinh Kha khi qua sông Dịch Thuỷ để hướng về Hàm Dương thực hiện sứ mệnh tiêu diệt tên bạo chúa độc tài Để Kinh Kha có thể tiếp cận được Tần Thuỷ Hoàng những người thực hiên , giúp đỡ đã phải mất nhiều của cải, và cả tính mạng như Phàn Ô Kỳ, tự cắt đầu để Kinh Kha dâng vua Tần. Có dịp gặp để ra tay.

Kinh Kha ra tay không thành công, bị giết ở giữa cung điện Tần Vương.

Đời sau người ta nhắc đến Kinh Kha , không luận sự đạt được mục đích ban đầu. Thiên hạ ngàn đời nhớ đến Kinh Kha, bởi dám làm một việc như thế.

Thực ra Kinh Kha chẳng những biết mình sẽ chết, mà Kinh Kha còn biết được mình sẽ không hoàn thành được công việc. Thế nhưng Kinh Kha vẫn đi, vẫn để bao người tâm huyết, xương máu bỏ ra để mình đi thực hiện công việc đó.

Bởi vì một điều mà ít ai nói đến.Là lúc đó hình ảnh Tần Thuỷ Hoàng chói loị quyền uy, như thánh thần, thượng đế. Thế mà có người tính chuyện giết chết. Giết chết như một tên ác nhân bình thường, đó là giết bằng dao găm.

Câu chuyện hành thích của Kinh Kha đã dấy lên trong nhân dân ý nghĩ, rằng Tần Thuỷ Hoàng không phải là thánh, là thượng đế. Mà chỉ là độc tài, khát máu, man rợ có quyền lực trong tay. Hắn chẳng phải con trời, hay thần thánh gì cả. Từ đó bắt đầu có những sự nổi dậy liên miên của người dân, nhà Tần bị diệt vong không lâu sau đó. Thậm chí ngay trong nội bộ triều đình sự coi thường vương triều nhà Tần cũng lộ trắng trợn qua việc Triệu Cao, Lý Tư lộng hành.

Đó chính là điều mà Kinh Kha mong đợi, chứ không phải là việc ông giết được Tần Thuỷ Hoàng. Ông mong đợi  nhát dao của mình đâm vào cái áo của Tần Thuỷ Hoàng,  đó là đâm vào hình ảnh chế độ độc tài hùng mạnh, đâm vào một hình tượng tưởng như thánh thần trên trời rơi xuống, đâm vào sự ngộ nhận của nhân dân, sự sợ hãi của nhân dân Trung Hoa dưới thời Tần Thuỷ Hoàng. Để rồi những cuộc khởi nghĩa được phát động, để cho chính những quan lại nhà Tần cũng coi thường Tần Vương, cho đó cũng là con người, có thể lấn át quyền lực như thường.

Nhát dao của Kinh Kha chính là nhát dao đâm vào hình tượng của một chế độ. Thân xác của Tần Doanh Chính còn sống, nhưng hình tượng về bậc đế vương uy quyền khiến thiên ha khiếp sợ bắt đầu chết từ đó.

Câu chuyện về Kinh Kha gắn với dòng sông Dịch Thuỷ, hình ảnh người tráng sĩ ra đi và để lại cho đời sau một huyền thoại bất tử...

Thể chế là yếu tố chính giúp một quốc gia thịnh vượng.

Tuần Việt Nam/ Vnn 
Ảnh: Lê Anh Dũng
(...)

Nhà báo Thu Hà: Sau 69 năm lập quốc và gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế của khu vực và thế giới?

Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Nếu hình dung nền kinh tế thế giới như một cánh rừng với những tầng bậc thấp khác nhau. Có những cây khổng lồ, to khỏe vững chắc luôn là trụ cột của cánh rừng. Cạnh những cây to vừa đang trên đà lớn mạnh còn có cả cây lúp xúp, lơ thơ… Có lẽ nền kinh tế Việt Nam mới là một cây nho nhỏ trong cánh rừng đó.


Với quy mô của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khoảng  200 tỉ USD nếu đem so sánh với GDP của Indonesia là gần 900 tỷ USD, Hàn Quốc là 1.200 tỷ USD; Nhật khoảng 6.000 tỷ và Mỹ lên tới 16.000 tỷ có thể thấy chúng ta ở vị trí còn rất khiêm tốn. Về GDP trên đầu người thì chúng ta còn thấp nữa vì quy mô dân số của ta lại đứng khá cao trên thế giới.

Sòng phẳng mà nói ngay với khu vực ASEAN (một khối kinh tế tương đối nhỏ và khiêm tốn so với các khối kinh tế khác trên thế giới), Việt Nam vẫn chưa phải một nước khá giả, mới chớm chạm tới mức trung bình thấp. Còn nếu xét trên bản đồ kinh tế thế giới nói chung, Việt Nam vẫn chưa có một chỗ đứng đáng kể nào. 

Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang: Nhìn lại quãng thời gian 69 năm qua, 40 năm đầu Việt Nam hết sức khó khăn, trải qua nhiều cuộc chiến tranh dài ngắn khác nhau, làm suy kiệt sinh lực của đất nước. 

Công cuộc Đổi mới ở cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã đem lại những thành công đáng kể. Việt Nam đã trở thành một điểm sáng trong câu chuyện xoá đói giảm nghèo, lần lượt thực hiện thành công nhiều mục tiêu thiên niên kỷ. 

Tuy nhiên, khoảng cách về mức độ phát triển giữa chúng ta và các nước trong khu vực ngày càng lớn. Hiện nay GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc cao gấp 14 lần Việt Nam. Giả sử Việt Nam có thể tăng trưởng đều đặn 8% một năm, còn Hàn Quốc tạm thời đứng yên, thì mất gần 40 năm Việt Nam mới đuổi kịp Hàn Quốc của bây giờ. Ví dụ đó cho thấy chúng ta đang ở đâu, và nguy cơ chúng ta tiếp tục tụt hậu lớn như thế nào, bởi thời kỳ chúng ta tăng trưởng 8% và hơn một năm dường như sẽ còn lâu mới quay trở lại.

 Nhà báo Thu Hà: Chúng ta cần tới 35 năm kể từ thời điểm 1975, tương đương một thế hệ, mãi tới năm 2008 lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam vượt qua ngưỡng 1.000 USD, thoát ra được vị trí của nước nghèo và vươn lên vị trí thu nhập trung bình thấp. Vì sao chúng ta  phải đi qua một quãng thời gian lâu đến vậy?

Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang: Một trong những thách thức lớn sau 1975 là chúng ta phải thu dọn hậu quả chiến tranh, xây dựng lại một đất nước bị tàn phá và chia cắt trong quá khứ. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng chúng ta đã mất nhiều thời gian, đã phí nhiều nguồn lực con người và cơ hội. Phải đi một quãng đường vòng vì trong một thời gian dài chúng ta đã có những chính sách kinh tế và phát triển chưa hợp lý.
Tuần Việt Nam, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang, Đổi mới, Thể chế,  quốc khánh, Thu Hà
Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang (phải).

Nếu đi đúng hướng, luôn sẵn sàng điều chỉnh và đổi mới, một quốc gia có thể lột xác chỉ qua một thế hệ. 

Giữa những năm 1960, Singapore vẫn còn nghèo và lạc hậu hơn Manila của Phillipines hay Colombo của Sri Lanka. 

30 năm sau, họ đã trở thành một quốc gia của thế giới thứ nhất. Sự cất cánh của các con rồng châu Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan… cũng là những ví dụ đáng khích lệ khác. Trong thời điểm hiện nay chúng ta phải nỗ lực gấp bội, vì các quốc gia khác trong khu vực , như Myanmar, Campuchia, đang nổi lên cạnh tranh trong một môi trường kinh tế quốc tế ngày càng khó khăn.   

Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Tôi từng nghe một vị lão thành kể lại, hồi thập niên 1965, một phóng viên Hàn Quốc tới Sài Gòn. Anh ta cảm thấy rất hâm mộ khu trung tâm thành phố, vực chỗ nhà hát lớn bây giờ, và ao ước một ngày nào đó, Seul quê hương anh sẽ xây được những tòa nhà đẹp như thế….
 
Tôi cũng mới được gặp một giáo sư Hàn Quốc. Ông ấy kể, quãng 20 năm trước, các trí thức nước họ mỗi khi có dịp ngồi với nhau đều không tin bật cười khi sẽ nghĩ có một ngày nào các sản phẩm của nước họ sẽ có thể đứng cạnh tranh với những tên tuổi lớn của Nhật Bản như Sony, Toyota….. Quả thực vào lúc ấy, đó  là điều không tưởng, họ không dám mơ đến.

Nhưng đó là câu chuyện của hơn hai chục năm trướcquá khứ. Bây giờ Hàn Quốc như thế nào, hẳn chúng ta đều đã rõ. Có những cuộc phát triển mà ngay cả những người trong cuộc họ cũng không hình dung ra được, vậy mà họ đã làm được nhờ dám mạnh dạn đổi mới theo các mô hình phát triển hợp thời cuộc, với một tinh thần và khát vọng mạnh mẽ.

Câu chuyện phát triển của mỗi nước đều rất thú vị, ẩn chứa nhiều bài học cho các nước đi sau.
 
Nhà báo Thu Hà: Ông có thể nói rõ hơn?
 
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành: Quay trở lại với câu chuyện của chúng ta. 

Nhìn lại lịch sử kinh tế VN, có một thời vô cùng khó khăn, thời đó kinh tế Việt Nam sa vào khủng hoảng, cũng là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng về lý luận và chính sách kinh tế. Đó là khoảng thời gian 10 năm sau sự kiện 30/4/1975.

Với một nền kinh tế kiệt quệ sau cuộc chiến tranh khốc liệt lâu dài, hàng chục năm sống chủ yếu dựa vào viện trợ và nhập khẩu, bị bó buộc, giờ phải học cách sống bằng những cái tự mình làm ra. 

Chính nhờ sự phản tính đúng lúc, nhờ những bứt phá về tư duy, nhờ cải thiện các mối quan hệ quốc tế chúng ta đã tìm ra đường đi là cuộc Đổi mới hồi năm 1986, đã khơi thông dòng chảy kinh tế cho Việt Nam. Có thể nói xung lực này đến từ điểm đáy gần như bằng 0.

Giai đoạn 1986-1989 là giai đoạn chập chững mở đầu cho sự nghiệp đổi mới và cũng là giai đoạn bi hùng nhất trong sự nghiệp đổi mới kinh tế ở Việt Nam.

Tiếp đó giai đoạn từ 1990 đến 1996 là giai đoạn Việt Nam đạt được những tăng trưởng ngoạn mục, cơ bản thoát ra khỏi khủng hoảng, mở rộng quan hệ quốc tế, bộ mặt xã hội thay đổi nhanh chóng.

Giai đoạn sau này từ 1997 đến 2007 là thời kỳ Việt Nam hoàn thiện mô hình kinh tế của mình, từng bước thoát ly tư duy cũ, cải cách kinh tế theo hướng hội nhập vào môi trường kinh tế thế giới ngày càng sâu hơn, mà cột mốc quan trọng là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. 

Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam lại đang bước vào một giai đoạn mới. Sau 10 năm tăng trưởng nhanh, giờ đây bắt đầu có những loạng choạng. Bài toán đặt ra cho tư duy kinh tế lúc này bao gồm làm sao để duy trì tăng trưởng lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh, hoàn thiện môi trường thể chế và pháp lý, nguồn nhân lực đủ tầm với những yêu cầu của nền kinh tế hiện đại. Có thể coi việc chọn một mô hình kinh tế thực sự đúng đắn để đi theo đó chính là vấn đề cốt lõi của ta hiện nay.  

Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang:  Vì sao quốc gia này thành công, nhưng quốc gia kia lại thất bại? Đây là một câu hỏi đau đầu cho các chính trị gia và các nhà kinh tế học. Liệu có phải do văn hoá: người Do Thái hay người Nhật mang trong mình những yếu tố văn hoá giúp họ dễ thành công? Hay là do vị trí địa lý, những nước nhiệt đới nhiều thiên tại, dịch bệnh thì thường là nghèo? 

Gần đây, các chuyên gia hội tụ ở quan điểm là không phải văn hoá, không phải địa lý, thậm chí không phải việc có hay không một minh chủ, mà thể chế là yếu tố chính giúp một quốc gia thịnh vượng. Cụ thể là các thể chế tạo ra một sân chơi bình đẳng cho mọi tác nhân trong xã hội, tôn trọng và bảo vệ sở hữu cá nhân, không bóc lột môi trường, và không thiên vị cho bất cứ một nhóm lợi ích nào. 

Có những chứng cứ rất cụ thể cho vai trò quyết định của thể chế: Đông Đức và Tây Đức là ví dụ. Cùng một dân tộc, cùng một vị trí địa lý, cùng mức dân trí, cùng văn hoá, lịch sử, nhưng hai thể chế khác nhau cho ra hai con đường phát triển. Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc là một trường hợp khác.

(...)

28 thg 8, 2014

Lý luận của cậu học trò Albert Einstein khi còn ngồi ở ghế nhà trường với vị giáo sư.

Tác giả: Lê Quang Thọ
.
KD: Cảm ơn bạn bè iu quí gửi cho bài viết này. xin đăng lên Blog để bạn đọc chia sẻ.
.
Hi…. hị… Cũng ngày hôm nay, Blog bé tẹo của mình cũng chạy lẹt đẹt được hơn 2 triệu hits rùi. Tình cờ sang nhà Lão Cua, Lão ý vênh vang kiếm được hơn 10 triệu, và mở nhạc hò hét tưng bừng. Không hiểu vì sao, Blog mình dạo này không cập nhật được các clip ca nhạc nữa. Để cho Lão Cua biết tay  :P
Hi…hi… Xin cảm ơn bạn đọc gần xa, cảm ơn các nhà báo đồng nghiệp, các bạn bè iu quí luôn chia sẻ, giúp đỡ và ủng hộ  Blog Kim Dung/ Kỳ Duyên.
Chúc tất cả các bạn đọc, bạn đồng nghiệp, bạn bè iu quí sức khỏe, niềm vui, sự an lành và hạnh phúc. Mong các bạn góp ý cho Blog ngày càng có chất lượng và hấp dẫn  :D
Cảm ơn mọi tấm lòng!
Thượng Đế và Khoa Hc
Trong lớp học, vị Giáo-sư Triết-học ngắt giọng: 
Hãy để tôi giải-thích vấn-đề của khoa-học đối với tôn-giáo,”
  
và ông yêu-cầu một học-sinh đứng lên.
- Em theo đạo Chúa ?
- Thưa Thầy, vâng.
- Em tin vào Thượng-đế ?
- Tất-nhiên.
- Thượng-đế có tốt không ?
- Chắc-chắn là tốt.
- Có phải là Ngài Toàn-năng ?
- Có thể làm được mọi việc ?
- Thưa vâng.
- Em là tốt hay xấu ?
- Kinh-thánh bảo là kẻ xấu.
 
Vị giáo-sư cố ý cười, suy-nghĩ chốc lát và bảo: “À ha ! Kinh-thánh ? Giả-sử ở đây có người bệnh và em có thễ chữa lành. Em có khả-năng. Em có giúp anh ta? Em có thử không?
- Thưa Thầy, em sẽ thử.
- Vậy em là người tốt.
- Em không có ý nói thế.
- Tại sao lại không nói như thế ?
- Nếu có thể, em sẽ giúp một người bệnh, tàn-tật.
- Hầu hết chúng ta sẽ làm nếu có thể, nhưng Thượng-đế thì không ! Cậu học-trò không trả-lời, và vị giáo-sư tiếp-tục. “Em trai tôi là tín-đồ đạo Chúa đã chết vì ung-thư mặc dầu đã từng cầu nguyện xin Chúa Jesus cứu chữa… 
Sao mà cho Chúa Jesus tốt được ? Em có thể trả-lời được không ?
 
Cậu học-trò vẫn im-lặng…
 
Vị giáo-sư nói “Em không thể trả-lời phải không ?”
Ông cầm lấy ly trên bàn nhấp môt ngụm nước tạo thời-gian cho cậu học-sinh bớt căng thẳng.
 
“Chúng ta bắt đầu trở lại. Thượng-đế có tốt hay không ?”
- Dạ … tốt !
- Quỷ Satan có tốt không?
Cậu học-trò không ngại-ngần:
- “Không”.
- Vậy Satan đến từ đâu?
Cậu học-trò ngập-ngừng : “Từ Thượng-đế”
- Đúng thế. Thượng-đế tạo Satan. Em cho tôi biết có kẻ xấu ác trên thế-giới này không?
- Dạ có .
- Kẻ xấu ác có khắp nơi. Và Thượng-đế tạo mọi thứ, có đúng không?
- Dạ đúng.
Vị giáo-sư tiếp-tục:
- Vậy ai tạo ra kẻ xấu ác?
Nếu Thượng-đế tạo ra mọi vật, thì Ngài tạo ra kẻ xấu ác. Do bởi xấu ác hiện-hữu, và theo nguyên-lý “hành-động định-danh con người”, vậy Thượng-đế là kẻ xấu ác.
 
Cậu học-trò lại không trả-lời.
 
- Có phải bệnh-tật, vô đạo-đức, hận-thù và xấu xa hiện-hữu trên cõi đời này?
 
Cậu học-trò đứng im lúng-túng “Thưa vâng”.
 
- Vậy thì ai tạo ra chúng?
 
Cậu học-trò lại không trả-lời để vị giáo-sư lập lại câu-hỏi “Ai tạo ra chúng ?”.
 
Vẫn không có câu trả-lời. Đột-nhiên vị thẩy bước đến trước lớp học. Cả lớp như bị mê-hoặc. 
 
Ông tiếp tục hỏi một học-sinh khác “Hãy nói cho tôi nghe !”
 
.- Em có tin vào đức Chúa không ?.
- Vâng, Thưa Thầy, em tin.
Vị giáo-sư ngừng bước :
 
- Khoa-học bảo em có ngũ-giác-quan dùng để xác-định và quan-sát thế-giới xung quanh. 
 
Em đã thấy Chúa Jesus bao-giờ chưa ?
- Thưa Thầy, em chưa bao giờ thấy Ngài.
- Có bao-giờ em cảm-nhận được Chúa của em, nếm Chúa của em hay ngửi thấy Chúa của em ? 
 
Có bao giờ em có những cảm-giác nhận biết đức Chúa hay Thượng-đế ?
- Thưa Thầy, đáng tiếc là em không có.
- Em vẫn còn tin Chúa ?
- Thưa vâng.
- Theo quy-tắc những giao-thức thể-nghiệm, khả-nghiệm, và chứng-minh được, khoa-học bảo Thượng-đế không hiện-hữu… Em nói như thế-nào vể điều đó ?
- Không. Em chỉ có đức tin của em.
- Vâng. Đức tin. Và đó chính là vấn-đề khoa-học đã có đối với Thượng-đế. Không có bằng-chứng, chỉ có đức tin.
 
Cậu học-trò đứng lặng lẽ một lúc, trước khi hỏi :
“Thưa Thầy, có cái gì là nhiệt không ?”
- Có.
- Và có cái gì là lạnh không ?
- Vâng, có cả lạnh nữa em à .
- Thưa Thầy, không phải vậy.
 
Vị giáo-sư quay nhìn vào mặt cậu học-trò tỏ vẽ thú-vị. Cả lớp đột-nhiên im lặng như tờ. Cậu học-trò bắt đầu giải-thích :
- Thầy có thể có rất nhiều nhiệt, thậm chí thêm nhiều nhiệt, siêu-nhiêt, vô-hạn-nhiệt, nhiệt trắng, môt chút nhiệt hay không nhiệt, nhưng chúng ta không có cái gì gọi là “lạnh”. Ta có thể đạt xuống 458 độ dưới zero mà không có nhiệt, nhưng ta không thể xuống hơn thế nữa. Không có gì là “lạnh” hết; nếu không ta có thể đạt mức lạnh hơn độ thấp nhất là -458 độ. Mọi thể-vật có thể nghiên-cứu được khi chúng có hay truyền được năng-lượng. Ở độ zero tuyệt-đối (-458 F) hoàn-toàn vắng bóng nhiệt. Thưa Thầy, Thầy có thấy “lạnh” chỉ là chữ ta dùng để diễn tả sự “vắng bóng nhiệt”. Ta không thể đo-lường “lạnh” Ta có thể đo lường nhiệt theo những đơn-vị nhiệt vì nhiệt là năng-lượng. “Lạnh” không phài là đối nghịch của nhiệt. Thưa Thầy, đó chỉ là vắng bóng nhiệt.
 
Cả lớp lặng im. Có cây bút rơi đâu đó, nghe như tiếng búa rơi.
- Thưa Thầy, còn “bóng tối” ? Có cái gì là bóng tối không ?
Vị giáo-sư đáp lại không do dự :
- Có. Đêm là gì nếu đó không là bóng tối ?
- Thầy lại sai lầm. Bóng tối không là một cái gì cả ; chỉ là sự vắng mặt một cái gì đó. Thầy có thể có ánh-sáng yếu, bình-thường, ánh-sáng mạnh, ánh sáng nháy, nhưng nếu ánh sáng không liên-tục, Thầy chẳng có gì hết và phải chăng đó được gọi là bóng tối ? Và nếu thế, Thầy có thể làm bóng tối tối hơn, Thầy có thể làm được vậy hay không ?
 
Vị giáo-sư bắt đầu nở nụ cười với cậu học trò trước mặt. Đây hẳn sẽ là một học kỳ tốt đẹp. :
- Người bạn trẻ, em muốn nói đến điều gì ?
- Vâng thưa Thầy. Điều em muốn nói là tiền-đề triết-học Thầy khởi xuất là sai lầm, và kết-luận của Thầy cũng thiếu sót.
 
Lần này, nét mặt của vị giáo-sư không che giấu được sự ngạc-nhiên :
- Sai lầm ? Em có thể giải-thích được không ?
 
Câu học-trò giải thích :
- Thầy đang tạo một tiền-đề có hai mặt. Thầy tranh luận rằng có sự sống và rồi có sự chết; một Thượng-đế tốt và môt Thượng-đế xấu. Thầy đang có khái-niệm về Thượng-đế như là một gì hữu-hạn, là môt gì ta có thể đo đạc. Thưa Thầy, thậm chí khoa-học không thể giải-thích một ý-nghĩ. Dùng điện và từ, nhưng chưa bao giờ thấy, không hoàn toàn hiểu được đầy đủ. Xem cái chết như là đối nghịch với sống là không hiểu gì hết, thực ra cái chết không thể hiện-hữu như môt tồn-tại độc lập. Chết không đối nghịch với sống, chỉ là vắng bóng sự sống.. Bây giờ Thầy cho em biết có phải Thầy dạy học trò rằng chúng “tiến-hóa” từ khỉ ?
- Người bạn trẻ ơi, nếu em đề cập đến quá-trình tiến-hóa thiên-nhiên, vâng, tất-nhiên tôi đã dạy như thế.
- Có bao giờ Thầy dùng đôi mắt quan-sát sự tiến-hóa ?
 
Vị giáo-sư bắt đầu lắc đầu, vẫn cười mỉm như nhận ra cuộc tranh-luận sẽ như thế nào. Thật là một học kỳ tốt đẹp.
 
- Do bởi không một ai quan-sát được quá-trình tiến-hóa và lại càng không minh-chứng được nó đang tiếp-diễn, sao Thầy không dạy những quan-điểm của Thầy ? Phải chăng giờ đây Thầy chẳng là một khoa-học gia, mà là một người thuyết-giáo ?
 
Cả lớp học náo động. Người học trò vẫn im-lặng cho đến khi sự ồn ào lắng xuống.
 
- Để tiếp nối vấn-đề Thầy đã đặt ra cho bạn kia, em xin đưa một thí-dụ để rõ ý của em.Người học trò nhìn quanh lớp :
- Có ai trong các bạn đã từng nhìn thấy bộ não của Thầy ?
 
Cả lớp bật vang tiếng cười.
 
- Có ai trong các bạn đã từng nghe bộ não của Thầy ? càm nhận bộ não của Thầy, rờ mó và ngửi bộ não của Thầy ? Chẳng thấy có ai làm vậy cả. Vậy thì, theo quy-tắc những giao-thức thể-nghiệm, khả-nghiệm, và chứng-minh được, khoa-học bảo Thầy không có bộ não, thưa Thầy, em vẫn với một lòng tôn kính. Vậy thì, nếu khoa-học bảo Thầy không có bộ não, làm sao chúng em có thể tin vào các bài giảng của Thầy ?
 
Giờ thì cả lớp lặng yên. Vị giáo-sư chỉ nhìn chăm chăm học trò, khuôn mặt khó hiểu. Cuối cùng, tưởng chừng như vô-tận, vị Thầy già trả lời :
 
- Tôi đoán em sẽ phải đưa họ về lại với đức tin.
Cậu học-trò tiếp-tục :
- Bây giờ Thầy chấp nhận rằng có đức tin, và trên thực tế, đức-tin hiện-hữu với đời sống. Bây giờ, có cái gì là xấu ác không Thầy ?
- Tất nhiên có. Chúng ta thấy hàng ngày. Những thí dụ vô-nhân của người đối với đồng loại; vô số tội ác và bạo-lực xảy ra khắp nơi trên thế-giới. Những điều này biểu-hiện không gì khác hơn là điều xấu ác.
 
Cậu học-trò trả-lời :
- Thưa Thầy, sự ác không hiện-hữu, hoặc ít nhất nó cũng không tự nó hiện-hữu. Đơn-giản, sự ác là vắng bóng Thượng-đế. Cũng giống như bóng tối và lạnh, chỉ là ngôn từ con người đặt ra để diễn giãi sự vắng mặt của Thượng-đế. Thượng-đế không tạo ra sự ác. Sự ác chỉ là kết quả những gì khi con người không có tình-yêu của Thượng-đế trong con tim của họ. Giống như “lạnh” đến khi không có nhiệt hay bóng tối đến khi không có ánh sáng.
 
Vị giáo-sư ngồi xuống.
 
Nếu bạn đọc một mạch đến hết và miệng mỉm nụ cười, bạn nên gửi cho gia-đình và bè bạn với tiêu-đề “Thượng-đế và Khoa-học” này. 
Cước chú : Cậu học-trò trong câu chuyện chính là Albert Einstein!