27 thg 8, 2013

Điều hạnh phúc trong cuộc sống

Tháng Tám 27, 2013
 
 
 
 
 
 
i
 
Quantcast

Bí mật của cuộc sống là có thể có được hạnh phúc, quyết tâm xác định những gì mà bạn thực sự mong muốn trong cuộc sống.
GreenStar
imagesCó nhiều người cho rằng có tiền chính là điều hạnh phúc trong cuộc sống, vì có nhiều tiền thì sẽ không phải chết đói, không phải ở ngoài trời lạnh giá và muốn ăn, mặc như thế nào cũng được. Nhưng bạn biết không, tiền chỉ đem lại hạnh phúc nếu chúng ta biết sử dụng nó đúng mục đích. Như việc bạn dùng tiền của mình để làm từ thiện hoặc mua một món quà cho người bạn yêu thương. Còn nếu chỉ đơn giản bạn nắm trong tay rất nhiều tiền mà không muốn dùng số tiền ấy vào việc gì cả, thì hạnh phúc sẽ không bao giờ đến với bạn đâu, bởi vì rất nhiều trường hợp tự tử xảy ra ở các gia đình giàu có.
Những điều có thể đem lại cho bạn hạnh phúc là những điều vô cùng giản dị như cái ôm, nụ cười, tình yêu và điều đặc biệt ở chỗ rất ít người nhận ra những điều này, họ đi tìm kiếm những điều họ cho là lớn lao như một công việc dễ thăng tiến, một ngôi nhà lớn với số tiền kếch xù nằm trong tài khoản ngân hàng để cuối cùng khi cuộc tìm kiếm thất bại hoặc rơi vào bế tắc, họ mới cảm thấy mình đang sống một cuộc sống mơ hồ.
Bạn cần biết được những gì bạn muốn, sau đó dành mọi tâm huyết cho nó, khi đó bạn có thể nhìn thấy những điều giản dị một cách dễ dàng và tìm ra điều hạnh phúc trong cuộc đời của bạn.
Có rất nhiều cách tìm ra điều hạnh phúc, nhưng nếu bạn không muốn tìm hay sống thờ ơ với cuộc đời, bạn sẽ không có kinh nghiệm, niềm vui, sự bình yên và cả niềm hạnh phúc thật sự.
Một cậu học sinh mải miết đạp xe đi trên con đường dài để đến trường, nhưng đến lớp cậu vẫn cười rất tươi, vui vẻ ngồi vào chỗ học bài và giờ ra chơi, cậu còn có vài câu chuyện thú vị về những chuyện cậu gặp trên đường đi để kể cho bạn bè nghe. Còn một cậu học sinh khác, dù được ba mẹ chở đến trường bằng xe xịn, nhưng cậu lại không cảm thấy vui, bởi cả quãng đường dài cậu chỉ để ý đến việc sao tiền quà vặt ba mẹ cho ít thế, cậu không biết gì ngoài nghĩ đến bản thân mình…
Điều hạnh phúc trong cuộc sống đơn giản chỉ là việc biết quan tâm đến mọi điều xung quanh, nhìn nhận nó theo một chiều hướng tích cực và chia sẻ nó với nhiều người khác để niềm vui được lan tỏa, hạnh phúc được chan hòa.
Ở hai thế giới giàu — nghèo, người ta vẫn luôn cảm thấy những gia đình nghèo sẽ đáng thương hơn và kém hạnh phúc hơn. Những ông bố, bà mẹ giàu có sẽ có nhiều điều kiện để chăm sóc, yêu thương con cái của mình hơn những người bố, người mẹ suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, phải vất vả lo từng bữa ăn cho con cái. Nếu điều đó là đúng thì có bao giờ ta thấy được nụ cười của những người nghèo?
Thật ra, giàu hay nghèo không quan trọng và cũng không liên quan tới điều hạnh phúc trong cuộc sống. Điều quan trọng nhất là cách yêu thương và cảm nhận tình yêu thương của những thành viên trong gia đình. Nếu chỉ nghĩ rằng đáp ứng đủ mọi yêu cầu của người mình yêu thương là đủ thì tình yêu của chúng ta sẽ giống như đóa hoa “sớm nở, tối tàn”, nhạt dần theo cảm xúc.
Điều hạnh phúc trong cuộc sống đôi khi chỉ là việc thực hiện hóa yêu thương trong mọi hoàn cảnh, dù giàu có hay nghèo hèn, dù no đủ hay thiếu thốn. Bởi yêu thương luôn làm nên điều kỳ diệu.
Hãy mở lòng và đón nhận từ những điều đơn giản nhất, bạn sẽ biết được điều hạnh phúc nhất trong cuộc sống của mình.
tqs post ngay 27.8.2013

23 thg 8, 2013

 
Nhà thơ Hữu Loan
NHÀ THƠ HỮU LOAN KỂ VỀ BÀI THƠ "MÀU TÍM HOA SIM"
HỮU LOAN

“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hoá, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và … Tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hoá để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khoá đầu tiên. Ở Thanh Hoá, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ‘ Em chào thầy ạ’. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một ‘bà cụ non’. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo : em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn ; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …
Có lần tôi kể chuyện « bà cụ non » ít nói cho 2 người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận ! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành … Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ … Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý : « mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu » Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi :
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi : tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ … Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ : « Ngọt quá ».
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế !
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì … tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo !
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi … Tôi quay đầu nhìn lại … em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa …
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp …
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm « soạn kịch bản ».
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là :’yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả’. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay … lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết !
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại … Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ : vợ tôi qua đời ! Em chết thật thảm thương : Hôm đó là ngày 25/05 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối ! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi …
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn … Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra :
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh …
… Tôi về không gặp nàng …
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hoá … Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/04/1916 hiện tại đang « ở nhà trông vườn » ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ « quê đẻ của tôi đấy » thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi’ hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi’. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá ! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi !
Đó là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng … Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn 1 tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào ? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc ?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được ! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi ! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm !
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần 500 mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại 2 cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no … Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa !
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi « tái xuất giang hồ » sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần 1 năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản Văn hoá. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia « lộc » cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán…”.
 
( Nguồn : Nhà văn Từ Nguyễn Tĩnh gửi cho QTXM)
Màu tím hoa sim

HỮU LOAN

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu

15 thg 8, 2013

Bà mế xứ Mường trị nan y bệnh viện 'bó tay'

Ở vùng núi thuộc xóm Tre, xã Thượng Cốc, Lạc Sơn, Hòa Bình có một “thầy thuốc” người dân tộc Mường có thể chữa khỏi những bệnh nan y mà bệnh viện đã phải “bó tay” trả về.
Đó là bà Bùi Thị Nhổ - 65 tuổi.


Không chỉ nức tiếng ở vùng đất Hòa Bình, bà còn được rất nhiều người ở khắp các tỉnh, thành tìm đến nhờ cứu giúp. Có nhiều người khỏi bệnh đã nhận bà làm mẹ nuôi để cảm ơn bà.

Trở thành “thầy thuốc” sau khi bị bạo bệnh

Ngôi nhà nhỏ của “thầy thuốc” Bùi Thị Nhổ nằm khuất trên ngọn đồi vắng, ngay cạnh đầu nguồn nước suối Trang, quanh nhà toàn những cây thuốc quý hiếm được bà đem từ rừng về trồng lưu giữ.

Bà Nhổ kể, dù sinh ra trong một gia đình có nghề bốc thuốc nam nổi tiếng ở khắp vùng, nhưng hồi nhỏ cô bé Nhổ cũng như các anh chị em khác trong gia đình không được ông bà truyền nghề cho. Khi ông bà mất, nghề thuốc tưởng đã bị mai một.

Thế nhưng có một lần bà bị ốm liệt giường, tưởng không qua khỏi. Một đêm bà nằm mộng thấy bà nội trở về bắt phải học nghề thuốc. Vì theo lời bà nội, “con có căn nguyên phải làm nghề này, nên ta về báo mộng và dạy con cách lấy thuốc và cách chữa trị”.


Bà mế xứ Mường trị nan y bệnh viện 'bó tay'
Bà Bùi Thị Nhổ giới thiệu cây thuốc với khách. 

Trước tiên, bà nội chỉ cho những vị thuốc để bà tự chữa bệnh cho mình trước. Tỉnh lại, bà kể chuyện đó với chồng. Thương vợ, ông chồng leo lên đỉnh những ngọn núi cao lấy các cây theo bà miêu tả về sắc uống như lời bà nội dặn. Kỳ lạ thay, sau một tháng bệnh tình bà thuyên giảm, rồi khỏi hẳn. Từ đó, bà ngày ngày lên rừng lấy cây thuốc để chữa chạy cho những người quanh bản, quanh vùng.

Nhà bà lại tấp nập như ngày xưa khi gia đình còn bốc thuốc. “Vì mế có tính kiên trì và tuổi của mế không xung khắc với dòng họ, nên mế là người con được truyền lại những bài thuốc quý của các cụ ngày xưa, đặc biệt nhất là bài thuốc chữa ung thư” - bà Nhổ nói.


Tán bệnh, tiêu u


Trước khi đi hái thuốc, bà Nhổ thường thắp nén nhang cầu khấn trên bàn thờ để xưng tên tuổi, quê quán, tình hình bệnh nhân và xin các cụ đi theo phù hộ “để lấy cho đúng cây thuốc, chữa cho khỏi cái bệnh”. Sau bao năm lặn lội đi khắp vùng Tây Bắc, bà đã sưu tầm, đem về trồng hàng trăm cây dược liệu quý hiếm.

Theo kinh nghiệm của bà Nhổ, nguyên nhân dẫn đến bệnh ung thư chủ yếu là do cơ thể con người. Phương pháp chữa bệnh bằng thuốc nam cũng phải tuân theo nguyên lý triệt tiêu từ mầm bệnh bằng nhiều cách dẫn nhập các chất của cây thuốc. Đầu tiên phải ngăn sự phát triển của các khối u. Dùng cây dọc, cây mía bụt lấy ở Lào Cai xông uống. Hai cây thuốc này có chất kháng sinh, sẽ ngăn không cho mầm bệnh phát triển thêm.

Khi các khối u đã ngừng phát triển, phải dùng thuốc kích thích để tán khối u. Dùng cây thuốc có chất kích thích tác động trực tiếp vào vùng bệnh, tách khối u thành các ngăn nhỏ. Dùng hạt mảng và quả dọc, mỗi lần dùng mỗi thứ một quả đập nát ra, cho vào đun xông mũi. Sau đó, dùng cây nấm lim rửa bằng rượu nồng độ cao, nghiền nhỏ, dùng 1 thìa càphê để hòa với 1 chén nước nóng, uống lúc đang xông.

Còn một số u hạch thì đơn giản hơn là cạo lấy vỏ cây dổi rừng, lấy một phần đắp vào vùng u, một phần thì đổ ngập nước, sau đó gạn lấy nước uống đồng thời với lúc xông. Bà Nhổ lý giải cách dùng này tác động gián tiếp theo máu lưu thông đến vùng u và phần đắp tác động trực tiếp đến vùng u. Ngoài ra, còn dùng một số cây như cây hạt mảng, cây xạ u.


Đối với một số loại u như u cổ, u nách, u bụng... có thể chữa bằng phương pháp “thổi” kết hợp với uống thuốc, vì một phần hơi độc không thoát được cũng gây ra bệnh. Ngậm lá trầu hà hơi, sau đó phun nước thuốc vào vùng u đó. Còn nếu bị u ở vùng gần mắt vẫn dùng cách trên, chỉ khác ở chỗ thổi bằng nước gừng. Bài thổi của người Mường là cầu cho suối nước mát chảy qua cơ thể, máu lành lưu thông, máu độc thoát ra ngoài.

Cuối cùng là việc khử u, dùng những cây thuốc có chất tác động đến vùng u để xông, tắm và uống. Các cây dược liệu phải qua giai đoạn sơ chế: Rửa sạch, chặt nhỏ, phơi khô qua ít nhất 7 ngày nắng, gồm: Dây bổ máu 1kg, xạ đơn 1kg, xạ đen 5kg, xạ vàng 7kg, cây sản máu 5kg, cây máu tràng 5kg và một số cây khác như cây mẹ nhà, bưởi rừng, cây nốt ruồi, lá dâm bí, cây cỏ mẫu, cây chân chim, mỗi cây dùng 1kg. Với hàm lượng như vậy có thể chia thành 5 thang thuốc.

Cách sử dụng cũng hết sức đơn giản: Đun sôi thuốc rồi lấy khăn trùm kín đầu và mặt để xông khoảng 1 tiếng, rồi mới uống nước thuốc. Mỗi thang thuốc chia làm nhiều lần đun, mỗi lần đun nhỏ lửa khoảng 5 tiếng đồng hồ, đun cho ấm thuốc cạn đi 50% thì bắc xuống để nguội rồi uống. Mỗi ngày chia làm 4 lần uống, lần 1 buổi sáng thức dậy, lần 2 vào buổi trưa (trước bữa ăn), lần 3 vào buổi chiều tối (trước bữa ăn), lần 4 trước khi đi ngủ. mỗi lần uống 3 chén nhỏ.

Khi bệnh có dấu hiệu thuyên chuyển, người bệnh cảm thấy khỏe hơn, ăn được ngủ được vẫn cần phải uống thêm thang cuối là thang thuốc kiệt, ngăn không cho mầm bệnh tái phát. Thang thuốc kiệt của bà Nhổ gồm những cây xạ đen, xạ vàng, dây bổ máu, chanh đất vừa có tác dụng chữa bệnh lại vừa có tính chất ngăn ngừa bệnh tái phát.

Bà mế có hàng trăm con nuôi

“Thầy thuốc quý nhất ở tấm lòng, nếu mình có thể cứu được họ mà không cứu là có tội đấy!”. Dù chữa cho nhiều người khỏi bệnh nhưng nhà bà Nhổ vẫn rất nghèo, hầu như bà không lấy tiền công chữa bệnh của ai bao giờ, chỉ lấy tiền công đi lấy cây thuốc, lúc năm chục khi một trăm. Đã có nhiều trường hợp bệnh viện trả về nhưng được bà chữa khỏi nên đã nhận bà làm mẹ nuôi.

Anh Bùi Văn Hảo ở xóm Chẹo, xã Tú Sơn (Kim Bôi, Hòa Bình) bị ung thư gan, Bệnh viện K (Hà Nội) trả về đã được bà Nhổ chữa khỏi. Anh Bùi Văn Long - xóm Khung, xã Thanh Hối (Tân Lạc, Hòa Bình) cũng được bà Nhổ chữa khỏi căn bệnh ung thư dạ dày nên đã nhận bà làm mẹ nuôi, thấy nhà mẹ nuôi nghèo quá nên đã xây cho bà ngôi nhà cấp 4. Mới đây nhất là trường hợp của cháu Nguyễn Hoàng Yến - 6 tuổi (Mỹ Lộc, Nam Định) đã được bà cứu sống do mắc bệnh nan y.

Trong cuốn sổ chữa bệnh của bà Nhổ có hàng trăm địa chỉ của những người đã từng là bệnh nhân được bà chữa khỏi từ Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định đến Lào Cai, Sơn La, Điện Biên rồi cả Thanh Hóa, Nghệ An. “Còn gì vui bằng khi mế đi đến đâu cũng có con, có cháu, cho dù mế chẳng nuôi chúng ngày nào. Mế cứ xuống bến xe là có các con ra đón. Ngày lễ tết các con ở khắp các tỉnh, thành về thăm mế đầy cả nhà. Đó là niềm vui sướng, hạnh phúc nhất của mế khi đã chữa được cho nhiều người khỏi bệnh” – bà Nhổ tâm sự.

Có điều bà Nhổ luôn cảm thấy buồn là cho đến nay bà vẫn chưa chọn được ai trong số các con để truyền lại bài thuốc gia truyền này. Bà chỉ lo một ngày nào đó bà đi với tổ tiên thì những bài thuốc quý “chữa bệnh giúp người” sẽ bị thất truyền.

 Ông Bùi Văn Thái - Chủ tịch xã Thượng Cốc - cho biết: “Đối với người dân tộc vùng cao, việc sử dụng các loại cây dược liệu trong rừng để chữa bệnh rất phổ biến. Bà Nhổ ở xóm Tre là một trường hợp như vậy. Việc bà chữa khỏi những trường hợp bị khối u (ung thư) là có thật, nhiều người khỏi bệnh đã nhận bà làm mẹ nuôi. Để kiểm chứng bài thuốc này cần phải có các tổ chức y tế, các nhà y học nghiên cứu và đưa ra kết luận thì mới khẳng định được. Dù sao thì đây cũng là tia hy vọng cho những bệnh nhân mắc phải căn bệnh nan y khi khoa học đã chịu bó tay”.
tqs post ngày 15.8.2013 từ báo VTC NEW

14 thg 8, 2013

BUÔN VUA

 
i
4 Votes
Quantcast

Truyện ngắn của THÁI DOÃN HIỂU
Thái Doãn Hiểu, 2010
Thái Doãn Hiểu, 2010
Sau này, mỗi lần đi qua quán Trung Tân của Trạng, tôi lại lặng lẽ mỉm cười trước cái bả lợi danh mà người đời thời nào cũng ham hố. Xưa, Lã Bất Vi từng rấm hạt giống của mình để buôn một ông vua và  thừa tướng họ Lã đã chết bất đắc kỳ tử vì ông vua con do mình lai ghép đó.
Trong các hàng hóa bán mua ở trên chính trường, có lẽ món béo bở có lãi  thượng thặng  là món kinh doanh quyền lực. Món này dễ mất đầu như bỡn nhưng không ai ngán mà từ bỏ nó cả.
(TDH) 
*  
Những ngày còn dạy học trên quê hương  Trạng Trình, chiều chiều tôi (Thái Doãn Hiểu) thường thơ thẩn một mình dạo chơi ngắm cảnh mặt trời tà đỏ ối trên sông Tuyết mà chạnh nhớ đến Phu Tử người hiền.
Có lần đi qua nền cũ quán Trung Tân, tôi bật cười vì một sấm ngôn do một bà tuổi sồn sồn bất chợt xướng lên oang oang cho một bà bạn đi chợ hôm về cùng nghe:
Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công suốt làng!
Ngựa đá thì làm sao lội qua sông được nhỉ ? Lỳ khôi quá ! Vĩnh Lại là làng của Trạng Trình  rồi, nhưng ai làm quận công mà nhiều rứa ? Cả một làng quận công chứ chẳng chơi ở một xó làng quê nghèo kiết, hiền khô ở mé bể xa tít kinh kỳ này ! Ái chà ! Làng Cổ Am xưa kia đã từng  hiển hách xài sang đến nhiều thế ư cái danh tước hiếm hoi thông thường cả nước may lắm chỉ có độ vài ông.
Tôi đem chuyện này ra hỏi anh Nguyễn Văn Khoảng – hậu duệ xa đời của Trạng. Nhiều sấm ký của Tổ, anh Khoảng rất rành nhưng chuyện này thì ông chánh văn phòng trường cấp III Vĩnh Bảo nghểnh ngãng bảo là không hay. Tôi lại đem hỏi một vài vị cao niên, họ cũng lắc đầu không biết nốt, Và rồi sự tích ngựa nghẽo, quận công đầy quyến rũ trong tâm trí tôi cứ chìm dần vào lãng quên giữa công việc dạy dỗ với chuyện áo cơm ì xèo thường nhật.
Bẵng đi lâu lắm, một dịp tình cờ tôi sang Ninh Giang chấm thi, gặp ở bến đò Chanh một bô lão đầu quấn thủ rìu, quần nâu áo chằng nhưng có cặp mắt tinh lạ không phải mắt người thường, làm nghề chở đò trên sông giải mã cho nghe câu sấm ấy. Ông lão ngoắt cây sào dài khua vào be lộp cộp, đẩy con thuyền nát bơi ngược dòng, ngoặt cái mũi thuyền đã quay sang ngang.
Lão kể:
Khi hồi hương ẩn cư lập ra quán Trung Tân, Phu Tử có sai gia nhân tạc một con ngựa đá đặt ở xế của quán ven bờ sông Tuyết. Con ngựa đá tầm thước sống động nhong nhong tưởng nôn nóng muốn tế vó nhưng nó sợ tấm bia đá đứng cạnh với hàng chữ Nho khắc rất bay bướm như đùa nên bồn chồn đứng yên, bức bối “Hà thời thạch mã độ giang – Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu”. Ngựa đá và bia đá sấm tạc từ năm 1557, trở thành kỳ quan của làng thu hút không biết bao nhiêu kẻ hiếu kỳ tứ phương. Tấm bia và ngựa đá kiên gan đứng đó tắm mưa nắng, gội thời gian như một câu đố bí hiểm sừng sững  suốt hơn hai thế kỷ. Những đầu óc thông thái thời kỳ ấy đoán già đoán non mò không ra lời đáp.
Tới năm 1777, trời làm một cơn đại hồng thủy, đê vỡ, nước ngập lai láng, ngựa và bia đá biến đâu  mất tăm. Dân làng cũng chẳng còn hơi sức đâu để ý đến nó. Họ lo hàn đê, dựng lại nhà cửa, tổ chức lại cuộc sống sau cơn thủy tai. Ba năm sau, một gã nông phu đi thả ống trúm bắt lươn moi được con ngựa đá vùi trong bùn cát bên hữu ngạn Tuyết giang. Đó chính là con ngựa đá của Trạng bị dòng xoáy lũ ném từ tả ngạn quán Trung Tân sang đây.
Chắc có điềm trời báo mộng chi đó, dân làng sợ động đến oai trời nên lập miếu thờ, dựng ngựa đá dậy ngay chỗ huyệt ngựa vừa đào được.
Cái năm “Ngựa đá sang sông” cũng là năm đất nước khốn khổ này xảy ra nhiều thác loạn. Tại Kinh kỳ, ông chúa Trịnh Sâm vì mê đắm bà Chúa Chè Tuyên phi Đặng Thị Huệ, mà bỏ trưởng Trịnh Tông lập thứ đưa đứa con nít ba tuổi đầy sài đẹn con ả (Trịnh Cán) lên ngai làm bọn lính Tam phủ nổi giận. Sâm vừa băng hà là chúng làm binh biến giết Cán, giết luôn cả quận Huy Hoàng Đình Bảo phò Khải lên giá ngay. Cậy công cậy quyền, bọn kiêu binh lộng hành làm đủ trò ngược ngạo. Chúng tỉa dần bọn cận thần tay chân của Khải, con khinh Khải không khác gì đứa nặc nô.
Lúc ấy, ở Đàng Trong, thanh thế Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lẫy lừng sét vang sấm nổ. Chỉ sau mấy trận giao tranh, Nguyễn Huệ diệt tan Chúa Nguyễn. Thừa thắng quân Tây Sơn có Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn đường rầm rộ kéo binh mã ra bắc quét sạch Chúa Trịnh cùng đám kiêu binh bọt bèo làm cho ông vua trẻ Lê Chiêu Thống chạy bạt vía. Quân Tây Sơn thu đất nước về một cõi.
Ông Huệ bấy giờ trong mắt dân chúng, sĩ phu và nhất là cựu thần nhà Lê ở Bắc Hà chỉ là một gã bạch đinh áo vải ấp Tây Sơn, nhờ thời thế ngả nghiêng, chỉ chưa đầy năm đã đạp đổ một vua hai chúa, lên ngôi chúa tể hùng cứ  sơn hà nên vừa sợ, vừa phục, lại vừa khinh. Họ nổi lên như ong như kiến khắp nơi để phù Lê.
Nghe tin tướng Hoàng Phùng Cơ dấy binh ở Sơn Tây, Chiêu Thống lẻn theo họ Hoàng. Vua vừa tới nơi thì Cơ đã bị thượng tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm giết, quân doanh tan hoang. Hoảng hồn, vua khóc như bò con lạc mẹ, trốn chạy về cửa sông Luộc, mong được nương tựa quận công Đinh Tích Nhưỡng. Nửa đêm tới Sơn Nam có tin dữ: ngài Đinh tướng quân, dòng dõi Đinh Văn Tả  tập ấm 18 đời quận công này đã bị đô đốc Ngô Văn Sở đánh tan, phải cuốn cờ  bươn xuống Hải Đông (Hải Dương), Chiêu Thống lại đổi hướng lần mò về phía ấy. Khi sang đò bến Đầm, đức vua bị bọn lái đò họ Trần lột hết cả long bào lẫn bọc hành trang cùng vàng  ngọc quý giá, tống cho một đạp lộn cổ xuống sông, xong chèo đò cút thẳng. May có cận thần Lê Quýnh lén dấu được quả ấn “Truyền quốc bảo”, đang khi chộn rộn nhảy ào xuống sông trốn thoát. Vớt được ngài ngự lên, ông chú họ của đức vua lấy lời yên ủi, dặn dò “Tâu bệ hạ, thế giặc giờ đang cường như con nước lớn. Chúng là hùm beo lang sói. Muốn khôi phục lại giang sơn, bệ hạ không thể cậy trông vào lũ mạt dân Bắc Hà được. Quân tướng triều đình giờ chỉ còn là một đám ô hợp khốn nạn, bám vào chúng chết chìm cả lũ.  Muốn trục được giặc dữ ra khỏi xứ, hạ thần phải lặn lội sang Tàu một chuyến mới xong”.
Lê Chiêu Thống ngoi ngóp trong bụi dứa gai ướt lướt thướt mừng rơn, mếu máo “Phải ! Phải ! Hoàng thúc hãy nên vì sự nghiệp nhà Lê ta mau mau bôn tẩu sang Thanh triều cứu cấp, trẫm sẽ lưu lại trong nước hô hào dân chúng lập một đội nghĩa cử cần vương làm hậu thuẫn cho quan quân Thiên triều”. Lê Quýnh cung kính trả quả ấn vàng cho vua  “Đúng quá ! Hay lắm ! Thần cũng nghĩ vậy. Muốn chính danh phải có quả ấn vàng này trong tay. Bệ hạ nên giữ vật báu cẩn thận để hiệu triệu đắc lực và phong thưởng cho những ai tận trung báo quốc”. Vua ngượng ngùng lận quả ấn vào lưng cải trang giả làm thường dân. Vua tôi sụt sùi chia tay, kẻ ngược lên mạn bắc, người lần mò xuôi về phương nam.
Mờ sáng hôm sau, Lê Chiêu Thống vừa từ một tòa miếu đổ nát nơi ngài nghỉ qua đêm bước ra thì thình lình đã nghe thậm thịch những bước chân người chạy sấn sổ đến trước mặt, hò hét chỉ trỏ om sòm “A ha, đây rồi, anh em ơi, tìm mãi đức vua đây rồi !”. Đầu óc Chiêu Thống nổ đôm đốp, môi  líu ríu chối “Bậy nào ! Vua… Ai vua?! Các bác chớ nói nhảm mà mang tội cả lũ chứ chả chơi đâu !”. Một bọn chục người hò nhau xông vào cõng vua băng xuống thuyền, mặc cho đức ngài khiếp hãi gân cổ lên hết sức cãi. Định thần lại, trời ! Vua nhận ra cái chính bọn cướp ngày hôm qua đã trấn lột mình, tống mình xuống thăm hà bá đây mà.
Thì ra, sau khi khoắng được một mẻ bẫm, chủ thuyền Trần Sinh cho thủ hạ mời Trần Thành – cha hắn đang đỗ thuyền gần đó tới.  Nghe thủng chuyện, lão Trần Thành như kẻ động kinh, trợn tròn mắt, giẫm chân đấm ngực thùm thụp, thét “Cả một lũ chó lợn, ăn phải giống gì ngu độn thế. Tụi bay đã bỏ lỡ một cơ hội nghìn đời có một!”. Bọn thuyền chài quần quày áo cụt nghe chửi mặt thộn cán tàn. Lão Trần tức tối ném phịch cái áo long bào ra trước bấy nhiêu khuôn mặt ngơ ngác, gắt như mắm ruốc “Cướp lấy cái vật gở này làm chi hở trời, lợi lộc gì cho cam ! Bán không ai dám mua, cho không ma nào dám lấy, giữ thì có phải mình mày bị chém bay đầu thôi đâu mà có khi cả tam tộc mồ tổ nhà mày sẽ làm quỷ không đầu”. Bọn thuyền chài thấm sợ, co mình lại trước câu đe rùng rợn.
Vợ Trần Sinh láu táu chen vô “ Hay là bố mày vứt mẹ nó xuống sông ngay đi, rước chi của nợ này trong nhà để chuốc họa vào thân ?” Lão già được thể vểnh râu, quắc mắt “Làm thế mà chạy tội được à?”. “Biết xoay xở làm sao hở trời” – Trần Sinh thở dài than. Chờ cho những lời bàn tán lắng xuống, buông một tràng cười tinh quái, lão Trần vuốt râu tủm tỉm “Xưa nay, chúng  mày chỉ biết chài chài lưới lưới, thả câu bắt cá đem ra chợ đổi gạo. Nay, chúng bay có dám cả gan đi buôn không nào ?” “Buôn gì cơ ?” – “Buôn một ông vua !”. Chúng trố mắt kinh dị. Lão ra lệnh “Chúng bay hãy chia nhau sục tìm cho ra cái ông vua mất ngai mà chúng bay đã lột trần như nhộng ấy đem về đây hết lòng phụng dưỡng rồi phò tá ông ta đến chỗ ông ta muốn đi. Khi sóng yên bể lặng, chúng bay tha hồ mà lãnh ơn đền nghĩa đáp, thỏa sức hưởng phú quý vinh hoa. Tao đồ rằng chủ nhân của chiếc áo này phải là thiên đế chân mệnh đâu phải tay tẹp nhẹp, chẳng qua gặp bước lưu ly, khuất khúc nhất thời đó thôi !”. Thật là qủy kế, lão già quả đa mưu túc trí. Bọn chúng hí hửng, đang đêm đỏ đuốc táo tác chia nhau túa ra lùng sục khắp bãi bờ tầm ông vua.
Tìm được Lê Chiêu Thống, chúng dong thuyền áp thẳng về làng Vĩnh Lại, cung kính rước vua lên từ đường thờ tổ, mật báo cho cả họ đến lạy mừng sì sụp. Lê Chiêu Thống mừng sợ ngổn ngang. Ngay trước thiên nhan, cả họ bàn  kế sách ứng phó. Chúng bàn : “Đinh Tích Nhưỡng đang đóng đại bản doanh ở Kim Thành cách xa ta không bao lăm, chỉ độ vài ba chục dặm đường. Nếu ta đưa đức vua về đó, bao nhiêu công lênh họ Đinh phỗng trọn, còn nước mẹ gì cho bọn đánh cá họ Trần ta nữa !”. Một tôn ông ra dáng kên kên bàn góp “Ai bảo đánh cá là nghề hèn mọn ? Gã Trần Lý (Trần Thủ Độ) xưa kia chẳng hành nghề chài lưới đấy sao ? Hắn ta chạy kiếm ăn lần hồi từ Yên Sinh (Đông Triều) đến vùng nước Hiển Khánh, Tức Mặc ven sông Hồng (Hà Nam), qua Bát Xá, Nông (cạnh sông Luộc). Phúc bảy mươi đời nhà gã có đứa con gái nhan sắc Trần Thị Dung gả cho hoàng thái tử Sảm (sau này là Lý Huệ Tông) mà cả họ vớ bở, nhất loạt được phong hầu. Về sau gã ma mãnh tiếm luôn ngai vua họ Lý, khuynh loát bá chủ thiên hạ. Nay, họ Trần chúng ta cũng chẳng thiếu gì tay kiệt hiệt như Trần Thủ Độ. Vận trời đã đổi dun dủi trao đấng quân vương này vào tay bọn ta, lẽ nào bọn ta lại không bắt chước Trần Thủ Độ dốc toàn toàn tâm toàn lực phò vua giúp nước, dại chi cờ đến tay không phất lại đem vào tay cho họ Đinh hưởng ? Mà cái ông tổ họ Đinh tên Văn Tả kia xưa cũng chỉ là một gã khố dây cù bất cù bơ kiến ăn quẩn ven hồ Tây, may nhờ kéo hộ chiếc thuyền rồng vua đi du xuân mắc cạn  được vênh vang võng lọng chứ có hiển hách cái quái gì !”. Nói đoạn, đám họ Trần xếp hàng nhí nhố trước mặt rồng, sụp mọp xuống lạy năm lạy thề sống thề chết phò vua dẹp giặc đền ơn nước.
Trong khi quỳ lạy, một gã chợt trông thấy kim ấn thòi ra ở thắt lưng gần rốn thiên tử. Ông trưởng họ Trần ra dáng khúm núm trịnh trọng xin đức vua trước hãy giáng chiếu phong tước cho mình đã. Có phẩm trật cao sang rồi thì mới mưu bá đồ vương lo chuyện đại sự được, chứ không có cái khoản này thì nói ai người thèm nghe theo ?
Như ngồi trên lưng cọp, hoàng thượng rầu rầu len lét đem các chức “lãnh binh”, “đô đốc” ra biếu tặng. “Lãnh binh”, “đô đốc” là cái thá gì, phải “quận công” cơ, “quận công” mới vẻ vang, mới oai ?”. Chúng  huơ chân múa tay nhất loạt bức bách vua. Cá đã nằm trên trốc thớt, phật ý chúng là bỏ bu, vả đã đến nước này thì “quận công”, “đô đốc”, “tể tướng” hay “thái sư” cũng thế cả thôi, bất quá chỉ tốn công in phẹt cái ấn quẹt son lên tờ giấy bản bọn họ đã thảo sẵn, chứ có mất mát gì. Vị hoàng đế trẻ chậc lưỡi, nuốt vội tiếng thở dài đắng họng, dụ “Phẩm hàm sắc phong là vật báu của triều đình xưa nay chỉ dành ân thưởng cho kẻ có công với nước. Nay, không nỡ phụ lòng trung trinh chí cốt và công cứu mạng quả nhân trong cơn hoạn nạn, trẫm bằng lòng ban thưởng cho các khanh. Nhưng khi được hưởng lộc nước rồi, các khanh phải gắng lập công chớ phụ lòng trông cậy của trẫm”. Roẹt một cái, năm bảy tờ giấy bản đã được vua tự tay áp triệt quốc bảo đỏ lòm. Mấy vị tôn trưởng họ Trần từ phận khố rách áo tải nhảy phốc một cái lên hàng nhất phẩm triều đình.
Thấy thang công danh mấy vị tôn huynh leo dễ ợt, mấy bác nhàng nhàng trong họ đâm ghen, kỳ kèo đòi vua ban cho mình những tước hiệu cao quý hệt như thế. Chiều Thống thành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, lại phải nai lưng ra đóng luôn cho mấy “đạo sắc” nữa.
Tin tức nhanh chóng lan truyền khắp họ. Bọn trai đinh họ Trần thấy cha chú mần ăn ngon ơ, chẳng tốn mấy tí nước bọt  mà kiếm chác được sộp, liền lục tục kéo đến. Chúng quay ra công khích phỉ báng các tôn huynh ích kỷ chỉ biết vun quén cho riêng mình quên béng cả con em. Các tôn huynh ngồi thin thít ngậm tăm. Chúng nhâu nhâu bâu lấy đức vua, đứa lôi trước, thằng giật sau đòi thiên tử thấm nhuần ơn  đã mưa  thì phải tưới cho khắp.
Trót phải trét, Chiêu Thống đành run rẩy mở hầu bao lôi kim ấn ra in la in liệt cho mỗi đứa một đạo sắc “quận công”. Chỉ tước “quận công” thôi, chúng không ưng những thứ khác.
Mặt trời đội bể nhô lên. Công việc in ấn mới hoàn tất. Hoàng đế mệt phờ, mồ hôi ướt sũng lưng. Ngài gượng cười.. Hơn một trăm “quận công” nữa đã sản xuất xong.
Cái làng vạn chài Vĩnh Lại bé xíu, nghèo kiết với những ngư phủ chân đất đầu trần, chữ “nhất” cắn đôi tịt mít, qua một đêm bỗng trở thành “quận công” hết thảy ! Tuyết Giang Phu Tử thánh thật !
Hay tin, hai ông tướng họ Bùi họ Đinh cười gằn nhổ toẹt xuống cái lò quận công láo nháo rơm rác này. Các bác công khanh họ trần nhà ta đành phải đơn thương độc mã cứu nước ! Lê Chiêu Thống chọn đúng lúc sơ hở vuột khỏi tay các vị quý tộc cấp tiến gốc vạn chài, trốn thoát.
Nửa tháng sau, trong  một trận tử chiến ác liệt với quân Tây Sơn trên cánh đồng phía tả sông Luộc, tất cả các vị nhất phẩm của triều đình đó đã bị lưỡi gươm dũng mãnh nhà nghề của thượng tướng Vũ Văn Nhậm khuơ ráo không sót một mống.
Câu chuyện lão lái đò kể chỉ có thế. Cái lối kể mới khúc chiết, hoành tráng và thông thái làm sao. Dân vùng này từ già chí trẻ ai cũng yêu lão, trìu mến gọi lão là Nam Thông. Thế gian quả thực không hiếm người tài ẩn danh. Mười tám năm qua rồi, tôi vẫn nhớ như in cặp mắt trong suốt lem lém như mắt mèo hoang, cùng giọng kể chuyện rỉ rả tan ra trong tiếng mái chèo rơi lõm đõm. Không biết con sông Luộc xanh biếc ấy chảy về đâu?
TQS post ngày 14.8.2013

13 thg 8, 2013

 Giá trị của tư duy sử học 
Trần Trọng Dương
Theo Báo Tia Sáng
          Sinh viên Việt Nam và thực tập sinh quốc tế gặp gỡ và nghe TS Sử học Nguyễn Hồng Kiên nói chuyện tại khu khai quật di tích Hoàng Thành Thăng Long ngày 20/7/2013 (Ảnh Vietnam 3D Project).
          Sử học là một trong những phân môn của khoa học xã hội và nhân văn đem lại những LỢI ÍCH VỀ TƯ DUY, nhưng trong nhiều thập kỷ qua môn sử học không được đưa vào trong nhà trường, thay vào đó là một biến tướng sai lạc của nó: môn lịch sử.
          Sử học là gì? Có thể nói một cách ngắn gọn, sử học là khoa học về lịch sử, hay cao hơn là khoa học về nhận thức lịch sử. Lịch sử là toàn bộ những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, nhưng không ai dám chắc chắn và khẳng định rằng mình có thể nhận thức được đúng đắn toàn bộ về nó. Cái lịch sử mà chúng ta biết đến chỉ là những kết quả sau những chuỗi dài của hoạt động nhận thức, trong đó không tránh khỏi có sự chủ quan, phiến diện, nếu không muốn nói có khi là sai lầm. Sai lầm trong nhận thức lịch sử được tạo nên bởi nhiều nguyên nhân. Có thể là sai lầm khi ta chỉ có một số dữ liệu giả tạo, hoặc trầm trọng hơn, là sai lầm về mặt phương pháp luận và mục đích luận. Sai lầm về phương pháp luận là sai lầm về mặt tư duy, còn sai lầm do mục đích luận là sai lầm về đạo đức khoa học. Để tránh sai lầm trong nhận thức lịch sử, người làm sử học tuyệt đối không được mang trong mình một một đích nào khác ngoài mục đích thuần túy duy nhất là NHẬN THỨC LỊCH SỬ. Khi biện hộ rằng vì có lợi cho mục đích dân sinh, có lợi cho mục đích chính trị mà ta phải chứng minh một dữ kiện lịch sử nào đó, thì việc chứng minh ấy đã tiềm ẩn sẵn nguy cơ bị thiên lệch, không đúng với thực tế.
      Sử học là một khoa học xử lý các nguồn sử liệu để đưa ra nhận thức trung thực về lịch sử, nằm ngoài những định kiến tô hồng hay bôi xấu, nằm ngoài những mục đích có trước, và nằm ngoài những nhiệm vụ chính trị. Người làm sử học phải là người thao tác tư duy trên cơ sở giám định và giải độc sử liệu. Vì thế, lịch sử - với tư cách là cái được tái hiện bởi nhà sử học - không phải là một cái gì bất biến, cố định, vĩnh hằng, mà chỉ là những sử thực tương đối. Ở thời điểm nhất định, với những tư liệu nhất định, chúng ta chỉ có thể nhận thức lịch sử ở mức độ nhất định. Nhưng nếu như có những phát hiện mới về sử liệu, và những sử liệu ấy được xử lý bằng phương pháp mới, góc nhìn mới, thì chúng ta sẽ có nhận thức mới. Nhận thức là một quá trình tiệm cận đến lịch sử. Và sử học thực chất là một trò chơi trí tuệ để tăng trưởng tư duy về lịch sử (cái đã qua) và quan trọng hơn cả là để tăng trưởng sự tự tư duy về cuộc sống hiện tại với tư cách mỗi cá nhân là tác nhân hay nạn nhân của lịch sử. Như thế lịch sử như là một trang sách để ngỏ, mà nhà sử học là người tái dựng nó từ những gì còn sót lại. Cho nên, một triết gia phương Tây đã từng thốt lên rằng: sử học là cuộc chơi của những người đang sống đối với những người đã chết! Khác với các môn khoa học tự nhiên như toán học, sinh học,…, thì sử học với tư cách là bộ môn khoa học về lịch sử đã không được đưa vào trong nhà trường trong nhiều thập kỷ qua, thay vào đó là môn lịch sử.
       Sở dĩ có hiện tượng như vậy là bởi chúng ta đã không coi lịch sử như là sản phẩm của quá trình tư duy, nhận thức về lịch sử. Những kiến thức lịch sử trong nhà trường được giảng dạy với tư cách nó là những chân lý tuyệt đối, những sự thực bất di bất dịch, bất khả xâm phạm. Và “môn lịch sử” không hề chỉ dẫn cho học sinh biết phải làm như thế nào để tự nhận thức về lịch sử, cũng như nhận thức về cuộc sống hiện tại, mà nó biến học sinh thành những cỗ máy học thuộc lòng với những sự kiện cụ thể, những mốc thời gian của lịch sử chính trị được hoạch định và được cố định bởi các nhà giáo dục. Mặt khác, các sách giáo khoa được giảng dạy trong hệ thống nhà trường hiện nay chủ yếu là viết về lịch sử chính trị- kinh tế. Điều này đã dẫn đến nhiều bất cập. Nó khiến cho học sinh hiểu phiến diện về mục đích và đối tượng của sử học, đồng nhất lịch sử với lịch sử chính trị, lịch sử chiến tranh. Các kiến thức được nêu trong sách giáo khoa được giảng dạy và được mặc nhận như là những chân lý, những sự thực bất di bất dịch, không thể sửa đổi. Từ đó dẫn đến hệ quả quan trọng thứ ba, là cách giảng dạy lịch sử một chiều, khô khan, áp đặt. Nó biến lịch sử trở thành một môn học thuộc lòng các sự kiện lịch sử, khiến tư duy của học sinh bị xơ cứng, và quan trọng nhất là không có nhận thức bản thân và tư duy của bản thân, cũng như quan điểm của bản thân các em về lịch sử.
         Trước tình hình trên, cần biên soạn lại hệ thống sách giáo khoa lịch sử theo một phương thức mới, để giúp học sinh cũng như xã hội hiểu thêm về khoa học lịch sử và quan trọng nhất là tư duy lịch sử. Trong đó, mỗi một bài học phải trình bày đủ cơ cấu lịch sử- văn hóa. Trong đó, chính trị (triều đại, thể chế, kinh thế, thành phần xã hội,…) chỉ là một nửa, chiếm dưới 50% dung lượng bài giảng. Còn lại trên 50% là lịch sử văn hóa (về cách lĩnh vực sâu hơn như: lịch sử ngôn ngữ- văn học, lịch sử nghệ thuật, lịch sử tôn giáo, lịch sử khoa học, lịch sử văn minh vật chất…). Sách phải đảm bảo tính đa dạng lịch sử và tính đa dạng văn hóa theo tiêu chí tộc người. Lịch sử không chỉ là lịch sử của người Việt, mà còn là lịch sử của 53 dân tộc anh em khác. Các nhận định và tri thức lịch sử đều phải dựa trên sử liệu gốc. Các tri thức về lịch sử văn hóa luôn phải đặt HIỆN VẬT KHẢO CỔ lên hàng đầu. Quan trọng nhất, lịch sử cần được trình bày như là những tri thức còn bỏ ngỏ, chưa được giải mã, cần được tìm hiểu, để kích thích tư duy phán đoán, và óc suy luận của học sinh.
    Tất cả những thay đổi trên sẽ góp phần đưa môn sử học vào nhà trường, biến sử học trở thành một môn học sống động, rèn luyện về sự độc lập trong tư duy. Bởi tư duy độc lập sẽ là xung lực để tạo nên sự phát triển xã hội! Một ví dụ về nhận thức sử học dưới tác động của mục đích chính trị là nhận thức về phong trào Tây Sơn. Với chủ ý muốn đề cao nhân dân, sức mạnh của nhân dân, chúng ta đã chứng minh rằng quân Tây Sơn với những chiến công lẫy lừng của họ là một biểu hiện sống động cho cuộc chiến tranh nhân dân, và đại diện tiêu biểu của phong trào đó là người “anh hùng áo vải cờ đào”- Quang Trung Nguyễn Huệ. Ngay hình ảnh “áo vải cờ đào” cũng đã được sử dụng như một thủ pháp ở đây? Đoạn trên vốn được trích từ bài “Ai tư vãn” tương truyền của công chúa Lê Ngọc Hân dùng để khóc chồng: “mà nay áo vải cờ đào, giúp dân dựng nước xiết bao công trình”. Những lời ai điếu theo kiểu “cái quan định luận” như vậy hẳn không phải là không có cơ sở, nhưng các chữ “áo vải” đã được đời sau đặt thành phương trình “áo vải = nông dân” thì cần phải xem xét lại khi so sánh với những sử liệu hữu quan. Mặt khác, việc Quang Trung ra Bắc với mục đích “phò Lê diệt Trịnh” cũng cần giải mã rằng đây là một thao tác chính trị. Chúng ta sẽ hiểu điều này hơn khi đọc nhiều văn bản địa phương tại miền Bắc, với danh từ “Tây tặc” để miêu tả tình trạng phá chùa, lấy chuông đồng đúc súng. Chúng ta có xu hướng không chấp nhận những góc nhìn khác về Nguyễn Huệ, được phản ánh qua nhiều tư liệu, trong đó điển hình như “Tây Sơn hành” mới được phát hiện, là bài thơ của tiến sĩ Trần Danh Án1. Mặc dù đối với giới nghiên cứu lịch sử, và nghiên cứu văn học thì đây hẳn là một tư liệu vô cùng đặc sắc, nó gợi mở những câu hỏi mới, những góc nhìn mới về một giai đoạn quan trọng của lịch sử Việt Nam, nhưng cho đến nay chưa có một nghiên cứu nào dám đề cập về bài thơ này trên các tạp chí khoa học. Mặt khác, chúng ta đã an nhiên bỏ qua những mâu thuẫn nội bộ trong anh em nhà Tây Sơn từ việc chia chiến lợi phẩm, cũng như ân oán cá nhân được ghi chép trong sử sách như đoạn trích dưới đây: “Nhạc đã đắc chí, ngày càng dâm ô, bạo ngược, giết Nguyễn Thung, lại thông dâm với vợ Huệ, người đều chê là xấu. Việc đi xâm lấn miền Bắc, của báu ở phủ chúa Trịnh, về cả tay Huệ, Nhạc đòi không cho. Huệ muốn lấy cả đất Quảng Nam, Nhạc cũng không cho, mới thành ra cừu thù hiềm khích nhau. Huệ bèn truyền hịch kể tội ác của Nhạc, đến nỗi bảo Nhạc là giống sài lang chó lợn”2. Chúng ta chưa biết những ghi chép trên (nhất là việc Nguyễn Nhạc thông dâm với em dâu) có phải là sự thực, hay đó là sự bôi bác, thêu dệt của sử quan triều Nguyễn sau này. Nhưng nếu như có được một sử liệu khách quan khác thì hẳn là những ghi chép trên không phải là không có cơ sở3.
_________________
[1] Bài thơ được chép trong ba văn bản Tản Ông di cảo (散翁遺稿 ký hiệu A.2157), Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432), kho sách Viện NC Hán Nôm. Có thể tìm kiếm một số bản dịch trên mạng
. [2] Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Ðại Nam Liệt Truyện tập II (Ngô Hữu Tạo, Ðỗ Mộng Khương dịch) (1997) Nxb Thuận Hoá. Huế. tr. 531-532.
 [3] Hoàng Xuân Hãn, “Thống Nhất Thời Xưa”, trong La Sơn Yên Hồ- Hoàng Xuân Hãn tập II (1998). Nxb. Giáo dục. Hà Nội. tr. 1375 Trần Trọng Dương post 13.8.2013

12 thg 8, 2013

INRASARA BÌNH BÀI THƠ “CHIA” .

Bài thơ CHIA của Nguyễn Trọng Tạo – cú hích cho lục bát Việt.

 Chia cho em một đời tôi một cay đắng một niềm vui một buồn.  Tôi còn cái xác không hồn, cái chai không rượu tôi còn vỏ chai .Chia cho em một đời say, một cây si với một cây bồ đề. Tôi còn đâu nữa đam mê ,trời chang chang nắng tôi về héo khô. Chia cho em một đời thơ, một lênh đênh một dại khờ một tôi .Chỉ còn có mọc bên trời, một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm…
 Lời bình: Chia như thế thì không còn chia nữa, mà là cho. Cho hết. Cho để tôi chỉ còn vỏ chai, tôi héo khô, tôi xác không hồn. Một tôi không gì cả. Lối nói “một, một” có thể chỉ là thủ pháp nghệ thuật. Nhưng hay hơn nên hiểu là cái Một nguyên vẹn, cả khối. Có số đếm là có kể (công nợ). Nhưng số đếm ở đây không giống của kế toán bán buôn so kè: cho đi mong thu về cái lãi. Của thi sĩ là không thu gì cả, hay thu về không gì cả. Còn hơn không gì cả – một số âm. Nhưng nếu được phép làm lại từ đầu, anh sẽ lặp lại như thế. Và như thế cho hết một đời thơ, một đời người. Đâu phải thể thơ cũ hay vần vè là không thể mới. Mới với hình ảnh mới, lối nói mới: Tôi còn vỏ chai, không phải tôi sở hữu những vỏ chai trống trơn, khô khốc! Tôi về héo khô, là héo khô của một đời cây thu phối không gì khác ngoài mầu mỡ của đất, mưa nắng của trời để tận hiến cho người đời hoa trái. Mới, bằng xếp đặt ngôn từ mới. Nhà thơ thoải mái vi phạm quy tắc văn phạm thông dụng: sau số từ (“một”) không chỉ là danh từ mà còn là một tính từ, động từ, thậm chí một đại danh từ. Và mới, nhất là nhịp điệu mới: nhịp điệu tạo nên bài thơ, nhịp điệu mới lạ làm nên bài thơ mới và lạ. Lạ, ở đây Nguyễn Trọng Tạo vận dụng nhịp điệu lạ ấy vào trong chính thể thơ truyền thống, thể lục bát – một thể thơ rất khó tạo được cái lạ – bằng ngắt nhịp và tách dòng. Và anh đã thành công!
    Với “Chia”, Nguyễn Trọng Tạo đã tạo được cú hích cho lục bát Việt một chuyển động đáng kể.
 tqs post ngày 12.8.2013

11 thg 8, 2013

BẠN BÈ.

 Lời giới thiệu của chủ blog: Đang lúc đầu óc trống rỗng thấy trên họp thư bạn bè (mail-box) bài viết ngắn này rất "hợp cảnh hợp tình"...nên quyết định đưa lên blog, chỉ tiếc không thấy tên tác giả (?)

 Bạn bè cũng như tiền: Có tờ ... thật, Có tờ ... giả
                                  Có tờ ... lành, Có tờ ... rách .
 Chỉ tiếc vì mình không phải là máy soi tiền nên không thể biết được... AI LÀ BẠN và BẠN LÀ AI ?

    Hai chữ BẠN THÂN có nghĩa là:

                                   B: bao dung
                                   A: an toàn
                                   N: nhường nhịn
                                   T: thương yêu
                                   H: hiền hòa
                                   Â: ấm áp
                                    N : ngọt ngào

      Tình bạn trong đời:

    Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy thật buồn và muốn khóc... Hãy gọi cho tôi! Tôi không hứa sẽ làm cho bạn cười, nhưng biết đâu tôi sẽ khóc cùng bạn!
    Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy vô cùng đơn độc.. Hãy gọi cho tôi! Tôi sẽ đến bên bạn, chỉ để im lặng không nói một lời, nhưng tôi muốn bạn biết rằng luôn có tôi bên cạnh.
    Nếu một ngày nào đó, bạn phân vân trước những quyết định của mình. Hãy gọi cho tôi! Tôi sẽ không quyết định thay bạn, nhưng có thể giúp bạn vững tâm hơn trước sự chọn lựa của mình.
    Nếu một ngày nào đó, bạn gặp thất bại trong công việc. Hãy gọi cho tôi! Tôi sẽ không đem lại cho bạn một công việc mới, nhưng tôi sẽ giúp bạn tìm thấy một cánh cửa khác của sự thành công.
   Nếu một ngày nào đó, bạn vô cùng đau khổ vì phạm phải sai lầm. Hãy gọi cho tôi! Tôi không thể sửa chữa sai lầm đó, nhưng tôi có thể giúp bạn nhận ra rằng những sai lầm sẽ giúp bạn trưởng thành và tự tin hơn.
   Nếu một ngày nào đó, bạn lo sợ những điều tốt đẹp sẽ qua đi. Hãy gọi cho tôi! Toi sẽ không níu giữ chúng lại, nhưng tôi giúp bạn hiểu rằng mọi việc đều có những điểm khởi đầu và kết thúc.
  Nếu một ngày nào đó, bạn trở nên bế tắc và tuyệt vọng. Hãy gọi cho tôi! Tôi không hứa sẽ làm bạn quên đi tất cả, nhưng tôi có thể giúp bạn tìm niềm tin trong cuộc sống.
  Nhưng một ngày nào đó, bạn gọi mà không thấy tôi trả lời. Bạn hãy đến bên tôi, vì lúc đó tôi đang cần bạn! Trong cuộc đời dù hai tiếng BẠN & BÈ thật rất ư khác biệt nhưng hai tiếng "bạn bè" vẫn thường được ghép đôi !
        Khi đắc thời đâu biết... AI là BẠN ,    Lúc thất thời mới biết ... BẠN là AI .
       Trong cuộc vui vẫn coi ... BÈ là BẠN , Khi hoạn nạn mới biết ... BẠN là BÈ.
 Đăng bởi Trần Kinh Nghị .
tqs post ngày 11.8.2013

10 thg 8, 2013

Ảo giác ngày xuân

ẢO GIÁC NGÀY XUÂN

 Chúa xuân tặng tuổi cho người
  Tặng đôi sợi bạc cho tôi nao lòng.
 Tặng em một chút ửng hồng
  Một trời áo lụa phơi phong mắt chiều
 Giật mình mình biết mình yêu
  Một bông hoa cải ít nhiều ngây thơ
  Hoa vàng nhuộm giấc ngủ mơ
  Dòng sông xưa cũ bây giờ còn trong
  Mưa xuân ướt áo chờ mong
  Đường quê mướt cỏ mà không thấy người
  Khói sương rúc rích tiếng cười
  Một bầy tiên nữ trêu người xa xăm
  Trở về phố xá thanh tân
  Hộp thư điện tử thiệp xuân chúc mừng
   Nao lòng tôi nhớ người dưng
   Nhớ bông hoa cải rưng rưng gió vàng…
        (Nguyễn Trọng Tạo)
  TQS post ngày 10/8/2013

8 thg 8, 2013

 Gửi các bạn trên 60 tuổi và vẫn còn mạnh khỏe

( Xin chuyển đến các bạn Bài viết này để đọc và suy ngẫm  để chúng ta có đủ sức khỏe và sống thọ hơn)
   
 Tuy trong rừng có nhiều cây đại thọ cả ngàn năm, nhưng người sống thọ đến 100 tuổi không nhiều.
 Bạn thọ lắm cũng chỉ sống đến 100 tuổi (tỉ lệ 1 trên 100.000 người).
 Nếu bạn sống đến 70 tuổi, bạn sẽ còn 30 năm.
 Nếu bạn thọ 80 tuổi, bạn chỉ còn 20 năm.
 Vì lẽ bạn không còn bao nhiêu năm để sống và bạn không thể mang theo các đồ vật bạn có nên đừng tiết kiệm quá mức.
 Bạn nên tiêu những món cần tiêu, thưởng thức những gì nên thưởng thức, tặng cho thiên hạ những gì bạn có thể cho, nhưng đừng để lại tất cả cho con cháu.
 Bạn chẳng hề muốn chúng trở nên những kẻ ăn bám. Đừng lo lắng về những gì sẽ xảy ra sau khi bạn ra đi, vì khi bạn đã trở về với cát bụi, bạn sẽ chẳng bị ảnh hưởng bởi lời khen hay tiếng chê bai nữa đâu.
 Đừng lo lắng nhiều qúa về con cái vì con cái có "phần số" của chúng và chúng sẽ tự tìm cách sống riêng. Đừng trở thành kẻ nô lệ của chúng. Đừng mong chờ nhiều ở con cái.
Con biết lo cho cha mẹ, dù có lòng nhưng do bận rộn vì công ăn việc làm và các ràng buộc khác nên không thể giúp gì bạn. Các con vô tình thì có thể sẽ tranh dành của cải của bạn ngay khi bạn còn sống, và còn muốn bạn chóng chết để chúng có thể thừa hưởng các bất động sản của bạn. Các con của bạn cho rằng chuyện chúng thừa hưởng tài sản của bạn là chuyện dĩ nhiên nhưng bạn không thể đòi dự phần vào tiền bạc của chúng.
 Với những người thuộc lứa tuổi 60 như bạn, đừng đánh đổi sức khỏe với tài lực nữa. Bởi vì tiền bạc có thể không mua được sức khỏe.
 Khi nào thì bạn thôi làm tiền? và có bao nhiêu tiền là đủ (tiền muôn, tiền triệu hay mấy chục triệu)? Dù bạn có cả ngàn mẫu ruộng tốt, bạn cũng chỉ ăn khoảng 3 lon gạo mỗi ngày; dù bạn có cả ngàn dinh thự, bạn cũng chỉ cần một chỗ rộng 8 mét vuông để ngủ nghỉ ban đêm. Vậy chừng nào bạn có đủ thức ăn và có đủ tiền tiêu là tốt rồi. Nên bạn hãy sống cho vui vẻ.
 Mỗi gia đình đều có chuyện buồn phiền riêng. Đừng so sánh với người khác về danh vọng và địa vị trong xã hội và con ai thành đạt hơn, nhưng bạn hãy so sánh về hạnh phúc, sức khỏe và tuổi thọ...
 Đừng lo nghĩ về những chuyện mà bạn không thể thay đổi vì chẳng được gì, mà lại còn làm hại cho sức khỏe bạn... Bạn phải tạo ra sự an lạc và tìm được niềm hạnh phúc của chính mình. Miễn là bạn phấn chấn, nghĩ toàn chuyện vui và làm những việc bạn muốn mỗi ngày một cách thích thú thì bạn thật đã sống hạnh phúc từng ngày.
 Một ngày qua là một ngày bạn mất đi, nhưng một ngày trôi qua trong hạnh phúc là một ngày bạn "được". Khi bạn vui thì bệnh tật sẽ lành; khi bạn hạnh phúc thì bệnh sẽ chóng hết. Khi bạn vui và hạnh phúc thì bệnh sẽ chẳng đến bao giờ. Với tính khí vui vẻ, với thể thao thể dục thích đáng, thường  xuyên ra ánh sáng mặt trời, thay đổi thực phẩm đa dạng, uống  thuốc bổ vừa phải, hy vọng rằng bạn sẽ sống thêm 20 hay 30 năm tràn trề sức khỏe.
 Và nhất là biết trân qúy những điều tốt đẹp quanh mình, và còn BẠN BÈ nữa, họ đều làm cho bạn cảm thấy trẻ trung và có người cần đến mình... không có họ chắc chắn bạn sẽ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ.!!!
 Xin chúc bạn mọi điều tốt đẹp nhất. ( Xin chia sẻ những điều này với tất cả những người quen của bạn đã trên 60 tuổi hay nhưng người không bao lâu nữa cũng sẽ trên 60)... Lê Nhứt mail cho TQS ngày 8.8.2013

7 thg 8, 2013

Thất trảm sớ còn nguyên tính thời sự


 THẤT TRẢM SỚ CỦA CHU VĂN AN CÒN NGUYÊN TÍNH THỜI SỰ 

 Trước khi có Đảng cộng sản thì dân tộc Việt Nam đã từng nhiều lần đánh đuổi quân xâm lược và xây đắp những triều đại có nền văn hiến rực rỡ, tạo nên sự trường tồn hàng ngàn năm của dân tộc Việt. Nhưng cũng có những triều đại (đa phần là các vị vua cuối triều) suy thoái dẫn đến diệt vong. Sự diệt vong của các triều đại đã minh chứng: chính sự suy thoái của giới cầm quyền mới khiến vương triều sụp đổ. Đó là bài học lịch sử vô cùng cần thiết đối với các thể chế cầm quyền. Tới đây tôi nhớ lại Chu Văn An với “thất trảm sớ” đề nghị vua cho chém bảy tên đại gian thần trình lên vua Trần Dụ Tông nhưng đã không được Dụ Tông cứu xét. Bây giờ nếu thầy Chu Văn An sống lại chắc ông phải có TRIỆU TRẢM SỚ mới diệt hết bọn gian thần đang lộng hành tham nhũng, cướp bóc, đè đầu cưỡi cổ dân ở trung ương và địa phương .
Dân ta khi nói về thầy Chu Văn An, ai cũng một lòng ngưỡng mộ, vì thầy là một bậc hiền nho, một tấm gương tiết tháo, suốt đời không màng lợi danh. Thầy có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo. Nhận thấy tài năng và đức độ của thầy, vua Trần Minh Tông(1314-1329) mời ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, dạy học cho thái tử. Đến đời Dụ Tông-thời kỳ suy sụp nhà Trần- tình hình thế sự thay đổi, vua quan ăn chơi sa đoạ, bọn gian thần tham nhũng, đục khoét dân nghèo ngày một nhiều.Cảm xót trước vận mệnh nước nhà, thầy đã nhiều lần can ngăn và dâng sớ chém 7 nịnh thần nhưng đều bất thành nên cáo quan về dạy học, viết sách cho tới khi mất.
 Sự nghiệp của thầy con ghi và thờ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám. Ngày nay khi nhắc đến thầy Chu Văn An, chúng ta thường liên tưởng tới “Thất trảm sớ” với nội dung xin chém 7 nịnh thần. Đây là một tờ sớ mang dấu ấn lịch sử rất quan trọng , người xưa chỉ nghe tiếng “Thất trảm sớ” thôi là đã ca ngợi rồi, nhà sử học Lê Tung (thế kỷ XV) viết, “Thất trảm chi sớ nghĩa động quỷ thần”, danh sĩ Nguyễn Văn Lý (thế kỷ XX) có thơ “Thất trảm vô vi tồn quốc luận/ Cô vân tuy viễn tự thân tâm”, nghĩa : sớ Thất trảm không được thi hành, cả nước bàn luận/Đám mây lẻ loi tuy xa vẫn tự có tinh thần trong lòng. Rất tiếc cho đến nay nội dung tờ sớ đó không ai biết, có thể lúc đó bọn gian thần đã hủy đi để bịt miệng dư luận hoặc ai đó hủy đi để bảo vệ ông cũng nên. Còn vua Dụ Tông thì hoảng sợ, không đủ quyền lực để ra tay.
   Theo sử sách ghi lại, nhà Trần trải qua 12 đời vua, từ vua đầu tiên Trần Thái Tông năm 1225, đến vua cuối cùng là Trần Thiếu Đế năm 1400. Như vậy nhà Trần kéo dài được 175 năm. Sau đó vào năm 1400 bị Hồ Quý Ly cướp ngôi. Cụ Chu Văn An sinh ra vào thời vua thứ 6 của nhà Trần, tức vua Trần Minh Tông, trải qua đời vua Trần Dụ Tông, và mất vào đời vua thứ 8 của nhà Trần, tức vua Trần Nghệ Tông, năm 1370. Thời vua Trần Dụ Tông là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần, và cũng chính lúc này thầy Chu Văn An dâng Sớ xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên gian thần, để mong cứu vãn nhà Trần.
    Như đã nói, chính sử không nêu nhưng trong dân gian vẫn truyền tụng nhiều. Theo cuốn Vương triều sụp đổ, tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hoàng Quốc Hải, NXB Phụ nữ - 2006, thì bảy tên gian thần bị Chu Văn An xin nhà vua xử trảm, như sau:
   1. Hoạn quan chi hậu cục Mai Thọ Đức, kẻ cai quản phi tần và tuyển chọn mỹ nữ, đã lạm dụng chức quyền bắt về vô số con gái nhà lương dân. Để nhiều người chết trẻ, chết già vì mòn mỏi trong cung thất; lại bày ra các trò dâm ô trác táng dẫn Hoàng thượng vào con đường vô đạo.
  2. Trâu Canh, viên ngự y phạm tội làm cho Hoàng thượng liệt dương từ năm 3 tuổi, lại bày trò phục dương cho bề trên khi 15 tuổi. Y đã bắt cóc 21 đứa trẻ khỏe mạnh con nhà lương dân, giết đi lấy mật làm thang cho bài thuốc hồi dương của quan gia. Rồi y bày trò cho quan gia thông dâm với chị ruột mình, nói là phương thuốc chữa trị. Trong khi chữa trị cho quan gia, y lại thông dâm với cung nhân của chính quan gia. Trâu Canh là người Hán, cháu nội Trâu Tôn đi theo quân nhà Nguyên vào xâm lược Đại Việt, năm Ất Dậu (1285) thất trận bị quân Đại Việt bắt, y đã xin hàng, lại xin được cư trú. Nay Trâu Canh lộng hành, dẫn dắt đức vua vào con đường thương luân bại lý.
 3. Bùi Khoan, Chính chưởng phụng ngự. Y bày trò cờ bạc rượu chè dơ dáy ngay trong cung thất, dẫn đức vua vào mê lộ, bê tha như đám dân đen ngu muội.
 4. Văn Hiến hầu can tội gây bè đảng khiến các đại thần chia rẽ, ngờ vực lẫn nhau, làm cho đức vua khó phân biệt người ngay kẻ nịnh.
 5. Hành khiển tả ty lang trung Nguyễn Thanh Lương, xảo trá, dẫn vua vào con đường ăn chơi xa xỉ, tới cạn kiệt quốc khố.
 6. Hành khiển hữu ty, hữu bộc xạ Tâm Đức Ngưu đồng lõa với Nguyễn Thanh Lương tìm đủ mọi cách tăng thu thuế khóa, tăng các sắc thuế từ thượng cổ chưa từng có, để bòn rút của dân, lấy tiền chi vào các cuộc ăn chơi trác táng của hoàng thượng. Kể cả những năm mất mùa đói kém, dân chết đói đầy đường, chúng cũng không tha giảm.
7. Đoàn Nhữ Cẩu, Đồng binh chương sự, bòn rút khẩu phần của lính, các đồ binh khí đã cũ hỏng vẫn không chịu thay thế, để lấy tiền công bỏ túi. Y sao nhãng việc luyện tập canh phòng biên cương phía Bắc, phía Nam gần như bỏ ngỏ. Hiện thời Chiêm Thành đang ráo riết nhòm ngó miền châu Hóa. Lũ gian thần này mượn danh Hoàng thượng để làm các việc, mà nhìn bề ngoài thiên hạ cứ ngỡ là chúng làm vì Hoàng thượng. Nhưng kỳ thực, các khoản chi tiêu cho Hoàng thượng chỉ một phần, còn vào túi chúng tới chín phần. Vì vậy thầy giáo Chu Văn An sau khi vạch tôi đã viết, “Để giữ nghiêm phép nước, nối dòng đại thống từ Thái tông cao hoàng đế tới nay, xin bệ hạ cho chém đầu bảy tên gian thần trên, và tịch thu sản nghiệp của chúng, sung quốc khố, để làm gương răn đe kẻ khác. Dù chỉ là huyền sử nhưng với những tên người cụ thể, với những cáo trạng như vậy cũng là một “giải mả thú vị”, thoả mãn lòng dân. Điều quý hơn hết là dân ta đã một lòng ca ngợi và xem thầy như sao Đấu, sao Khuê, Cao Bá Quát cũng từng viết, Thất trảm yêu ma phải rợn lòng Trời đất soi chung vầng hào khí Nước non còn mãi nếp cao phong (tổng hợp từ các nguồn tư liệu)
 -Ngô Minh.
TQS post ngày 7/8/2013

4 thg 8, 2013

03-08-2013
Nghĩ về đời sống văn học hôm nay, đôi điều tôi muốn nói

 Nguyễn Đình Chú GS- Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.

 Từ một thời tưởng như mọi chuyện đều êm ả Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã tạo ra một không khí rất mực hào hùng trên đất nước. Không hẳn là tất cả nhưng tuyệt đại đa số người Việt Nam, nhất là người dân lao động đều nhiệt tình đi theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà thể hiện rõ ràng nhất là sự hưởng ứng cao độ công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trí thức, văn nghệ sĩ, số đông cũng vậy. Cách mạng nhất thời đã thu hút được nhiếu trí thức, văn nghệ sĩ lớn của đất nước. Không ai có lương tâm nỡ đặt văn chương nghệ thuật lên trên số phận của đất nước vừa được cách mạng giành lại chưa được bao lâu lại đang có nguy cơ mất lại với kẻ thù ngoại xâm. Không ít trí thức văn nghệ sĩ sẵn sàng gác lại những đòi hỏi cần thiết của nghệ thuật và nghề nghiệp để nhiệt tình tham gia kháng chiến. Hoài Thanh trong bài Dân khí miền Trung đăng trên Tạp chí Tiền Phong số 3 ra ngày 16/12/1945 chẳng đã hồn nhiên tuyên bố ngày trước sống với cái Tôi là tội lỗi. Nay phải từ bỏ để về với cái Ta (cách mạng). Mặc dù chính nhờ đến với cái Tôi để thành bà đỡ đẻ của phong trào Thơ Mới mà ông có được Thi nhân Việt Nam sau này được mọi người, đặc biệt nhà thơ từng là thần đồng thơ Trần Đăng Khoa đặt lên vị trí thiên tài trong phê bình văn học, coi đây không phải là người viết mà là “người trời” viết. Tất nhiên, lúc này vẫn có người cũng nhiệt tình đi với kháng chiến nhưng không muốn rời bỏ con người nghệ sĩ của mình nên mới có câu thơ : “Ta muốn chia đời làm hai nửa/ Nửa làm chiến sĩ nửa thi nhân”. Khẩu hiệu văn nghệ phục vụ kháng chiến đã được đông đảo văn nghệ sĩ hưởng ứng. Nhưng thực tế vốn không đơn giản, trên đường đi với cách mạng với kháng chiến, mối quan hệ giữa chính trị với văn chương nghệ thuật, ít nhiều cũng đã chớm phát sinh mâu thuẫn. Cuộc tranh luận về nghệ thuật năm 1949 ở chiến khu Việt Bắc là dấu hiệu. Có điều là việc giải quyết mâu thuẫn lúc này đã quá nhẹ nhàng. Một cuộc nhận đường đã diễn ra mà kết quả là tạo được một khí thế đồng thuận, êm ả. Đúng là hào khí của Cách mạng tháng Tám, tráng khí của cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp đã nhất thời dẹp yên những mầm mống bất đồng về đường lối văn học nghệ thuật. Tác phẩm Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam của Trường Chinh xuất bản năm 1949 được coi như kinh điển. Tiểu luận Nhận đường của Nguyễn Đình Thi được xem là chính thống. Truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao được coi là thành tựu văn học đầu mùa và mẫu mực của công cuộc nhận đường để trong nhiều năm tháng, với nhà trường, nhận vật Hoàng vẫn bị coi là phản diện, nhân vật Độ vẫn được coi là chính diện một cách quá dễ dãi. Phong trào chỉnh huấn năm 1953 lại còn như là một cuộc thay máu cho văn nghệ sĩ từ chất tiểu tư sản sang chất công nông binh và còn được công cuộc cải cách ruộng đất góp phần bồi đắp thêm. Từ sau cuộc nhận đường cho đến ngày kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đời sống văn học nghệ thuật nước nhà, trong phạm vi khu vực cách mạng đã thành công, giường như chỉ thấy một chiều êm ả và góp phần vào sự chiến thắng của cuộc kháng chiến. Tất nhiên, sự đời cũng vẫn không đơn giản. Vẫn đã có những mạch nước ngầm chảy theo chiều khác. Vụ Nhân Văn – Giai phẩm xẩy ra vào thời gian 1956- 1957 lại là chứng cớ. Câu thơ “Đem bộc công an đặt giữa trái tim người” của nhà thơ Lê Đạt cho thấy sự mâu thuẫn giữa chính trị và nghệ thuật khá gay gắt, dĩ nhiên là với một số người như Lê Đạt chứ không phải với tất cả văn nghệ sĩ. Nhưng Nhân Văn giai phẩm đã nhanh chóng bị triệt hạ. Sự êm ả vẫn lại tiếp diễn. Đây là dịp để lý thuyết văn học nghệ thuật của phe xã hội chủ nghĩa đặc biệt là của Liên Xô tràn tới chiếm lĩnh văn đàn, đặc biệt là trong phạm vi nhà trường đại học. Sau vụ Nhân văn giai phẩm, hầu như mọi người đã ngoan ngoạn tin rằng mỹ học Mác-Lênin là cao siêu thần diệu nhất, phản ánh luận của Lênin là cẩm nang thần kỳ mở đường vào thề giới văn chương nghệ thuật có hiệu quả nhất. Đối với người sáng tác và phê bình văn học, phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa là tối ưu nhất với định nghĩa của Trường Chinh là “sự phản ánh cuộc sống trong trạng thái vận động cách mạng”. Thể ký được đặt lên hàng đầu trong cuộc tranh luận tại viện Văn học. Vai trò của hư cấu trong nghệ thuật phần nào bị xem rẻ. Có người đã gọi đùa cuộc tranh luận đó là cuộc “cấu ký “. Xu hướng xã hội học dung tục, chính trị hóa trong phê bình văn học được lên ngôi. Một nhà phê bình văn học có tên tuổi (xin miễn nhắc tên) của viện Văn học đã nói trước đội ngũ giáo viên văn của tỉnh Hà Đông (cũ) rằng tác phẩm Sống như anh của Trần Đình Vân ghi chuyện anh Nguyễn Văn Trổi hay hơn cả Truyện Kiều. Một số giáo viên đã viết thư xin giáo sư học giả Viện trưởng viện Văn là Đặng Thai Mai giải thích Sống như anh hay hơn Truyện Kiều ở chỗ nào làm ông Cụ nổi cáu hỏi tay nào nói nhảm nhí thế để giáo viên thắc mắc. Tiếp đó, tác phẩm Bất khuất ra đời thì lại còn là phi thường nữa. Đã có nhà lãnh đạo văn nghệ nói: với Việt Nam ta, chỉ cần ghi chép đúng với sự thật cuộc sống đã là nghệ thuật rồi bới lẽ chính cuộc sống đã đẹp, đã là nghệ thuật. Nói như thế nhưng không một ai có ý kiến khác. Trong không khí có vẻ êm ả này, đã xuất hiện không ít những “phương ngôn”(!?) được dùng ra đề thi môn văn trong nhiều kỳ thi tuyển sinh đại học. Ví như: “giữa bao ngọn cờ sai lạc, lá cờ anh là lá cờ Đảng” khi nói về thơ Tố Hữu, “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong tà áo đẹp/ Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn…Lòng ta thành con rối/ Cho cuộc đờì giật dây” khi nói đến phong trào Thơ Mới mà chính người nói từng là một ngôi sao của phong trào đó… Nhóm Tự Lực Văn Đoàn bị chê bai và xếp xó. Phong trào Thơ Mới bị cho là lãng mạn tiêu cực. Sinh viên đại học văn mà hầu như không được tiếp xúc với tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới. Nhất Linh, Khái Hưng…đều bị coi là phản cách mạng. Vũ Trọng Phụng là Trốtkit, là “lưu manh văn hóa” (HVH). Văn học ở các đô thị miền Nam là sản phẩm của văn hóa thực dân mới. Còn văn học miền Bắc xã hội chủ nghĩa là “nền văn học tiên tiến nhất của thế giới về đề tài chống chủ nghĩa thực dân”…Một đời sống văn học có những biểu hiện như thế đã tồn tại tưởng như êm ả, được mọi người chấp nhận. II. Đến cái thời biến động phồn tạp đa chiều Rõ là đời sống văn học nghệ thuật hôm nay trong đó đặc biệt là văn học đã không êm ả nữa, đã biến động để chuyển sang trang mới mang tính chất phồn tạp, đa chiều vốn là chuyện bình thường của nhiều nước trên thế giới: 1. Mấy trang đầu đã hé mở vẻ đẹp. Sự thay đổi ít nhiều trong quan điểm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên đà đổi mới toàn diện đất nước là nguyên nhân mở đầu. Hẳn là không ai quên niềm hân hoan thoáng có của giới trí thức và văn nghệ sĩ khi có cuộc gặp mặt cởi mở giữa Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với trí thức và văn nghệ sĩ năm 1987. Trong đó ông Tổng bí thư tuyên bố “cởi trói” cho văn nghệ sĩ và sẵn sàng đi đưa cơm cho văn nghệ sĩ nào vì sáng tác mà bị tù đày. Có thể coi đây như là một trận mưa xuân nhè nhẹ cho cây cỏ thêm chút xanh tươi, đâm chồi nẩy lộc. Những Cù lao Chàm, Đứng trước biển, Ngoại tình của Nguyễn Mạnh Tuấn; Đất trắng, Con tốt sang sông của Nguyễn Trọng Oánh, Những thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng của Dương Thu Hương, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Phiên chợ Giát, Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu; Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội của Lê Lựu, Truyện ngắn mà nổi bật nhất là Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp; Nỗi buồn chiến tranh (Thân phận tình yêu) của Bảo Ninh; Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng; Chuyện làng ngày ấy của Võ Văn Trực; Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập… có thể ra đời trước sau cuộc gặp gỡ với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nhưng được đón nhận chính là nhờ ít nhiều liên quan đến chính sách đổi mới văn học nghệ thuật của Đảng. Ở những sáng tác này, điều đáng ghi nhận là giá trị hiện thực trong cách nhìn và viết về chiến tranh, là giá trị hiện thực phê phán giám nói những điều mà trước đó là cấm kỵ, kèm theo là sự trổi dậy của con người cá thể (cái Tôi), tuy có sự hỗn tạp nhưng phần chân chính cũng không nhỏ. Trong phạm vi chính luận, Đề dẫn về công tác văn học nghệ thuật của Đảng đoàn văn nghệ do Bí thư Đảng đoàn là nhà văn Nguyên Ngọc chủ xướng thể hiện khát vọng đổi mới ít nhiều có tính chất đột biến. Cùng với đà đó, còn có một số luận điểm luận thuyết như Chủ nghĩa hiện thực phải đạo của Hoàng Ngọc Hiến, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa của Nguyễn Minh Châu, Cái thời lãng mạn của Nguyễn Khải, Tập tiểu luận của Lê Ngọc Trà …Tất cả, nhất thời đều được coi là thành quả đổi mới văn học một khi có sự đổi mới trong đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng sự đời vẫn lại không đơn giản chút nào. Chưa gì thì một luồng phản kích đã diễn ra. Đề cương công tác văn nghệ của Bí thư đảng đoàn Nguyên Ngọc, luận điểm về Chủ nghĩa hiện thức phải đạo của Hoàng Ngọc Hiến đã bị phê phán kịch liệt, đặc biệt là với hai ông Chế Lan Viên và Hà Xuân Trường. Rồi nữa, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Tập tiểu luận của Lê Ngọc Trà từng được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam, cũng bị phê phán găy gắt. Để rồi mọi chuyện lại tưởng như trở lại êm ả. Nhưng thực tế lại không phải thế. 2. Và hôm nay thì khác. 2.1. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, bao nhiêu lý luận văn học nghệ thuật một thời tồn tại êm ả, nào là về tính Đảng, tính khuynh hướng, về chức năng nghệ thuật theo quan điểm Mác xít, về phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, về phản ánh luận của Lênin, về lý thuyết của nhiều ông Ốp, ông Ép xem ra đã và đang nhường chỗ dần cho các loại hình lý thuyết khác của phương Tây hiện đại. Nào là cấu trúc luận, văn học so sánh, tự sự học, phong cách học, loại hình học, thi pháp học, phân tâm học, hậu hiện đại, diễn ngôn…Ngay đường lối văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam từ việc xây dựng một nền văn học nghệ thuật có nội dung xã hội chủ nghĩa và hình thức dân tộc cũng được thay bằng nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc và đến nay thì lại là xây dựng một nền văn nghệ tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đáng mừng là “ của Xêda đã trả lại cho Xêda”. Những giá trị văn học đích thực đã được khôi phục. Văn học hợp pháp thời kỳ 1930-1945, trừ dòng văn học hiện thực phê phán, từng bị hạ giá thảm hại thì nay sách Giáo khoa Văn phổ thông trung học đã có thể coi đó là thời kỳ rực rỡ thứ hai trong lịch sử văn học dân tộc. Hầu hết các tác phẩm có giá trị của thời kỳ đó đã được tái bản. Không ít luận văn, luận án đã nghiên cứu về tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, về Thơ Mới, về Nhất Linh, Khải Hưng, Thạch Lam… Vũ Trọng Phụng được đặt lại vị trí số một của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Kể cả Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh từng bị coi là tội nhân thuộc dòng văn học nô dịch nay là những người đi đầu trong công cuộc hiện đại hóa văn hóa văn học nước nhà. Cách nhận định về Phong trào Nhân Văn- Giai Phẩm đó đây cũng đã gần như nói ngược so với trước. Trong số những người tham gia Nhân văn- Giai phẩm bị điêu đứng mấy chục năm trời, nay hầu hết được khôi phục tư cách hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Không ít người được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước. Nhà văn Vũ Bằng từng được coi là nguyên mẫu của nhân vật Hoàng phản diện trong Đôi mắt của Nam Cao nay biết ra thì là tình báo chiến lược của cách mạng. Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng được trích học ở chương trình Văn THPT, THCS. Đặc biệt, nhà văn Lan Khai, tác giả của Lầm than, từng được đề cao trong tư cách nhà văn đầu tiên viết về giai cấp công nhân, nhưng rồi ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đang làm Chủ tịch phường tại thị xã Tuyên Quang thì bị thủ tiêu và mang oan phản cách mạng đến tàn lụi cả gia đình, thì nay cũng đã “sống dậy sáng lòa” trong buổi tưởng niệm của Hội nhà văn Việt Nam. Thái độ, cách nói về văn học miền Nam trước 1975 cũng đã khác trước, không ít tác phẩm đã được tái bản và có người đọc trong khi những tác phẩm của miền Bắc trước 1975 hình như lại ít được tái bản hơn. Rồi nữa, văn học hải ngoại cũng được nhìn nhận thỏa đáng không như trước và một số tác phẩm cũng đã được lưu hành trong nước…Và điều này thì hơi trái khoáy. Đó đây đã xuất hiện ít nhiều khuynh hướng sám hối, tự phủ nhận. Ví như Chế Lan Viên trong tập Di cảo với các bài thơ Trừ đi, Dã tràng xe cát, Ai tôi, Bánh vẽ..,Nguyễn Khải với bút ký Đi tìm cái TôI đã mất… kể cả Tô Hải bên phía âm nhạc với Hồi ký của một thằng hèn… Đó đây cách nói về hai nhà lãnh đạo chủ chốt của văn nghệ nước nhà trong nhiều năm tháng là Trường Chinh và Tố Hữu cũng đã khác trước rất nhiều…Trong nghiên cứu và phê bình văn học, tính Đảng, tính khuynh hướng, vấn đề lập trường một thời là sinh mạng của người cầm bút nhưng dẫn đến không ít sự bất chấp muốn nói gì thì nói cũng đã ít nhiều nhường chỗ cho tính khách quan khoa học vốn bị cho là sản phẩm của tư sản phải từ bỏ. Hệ quy chiếu dựa theo học thuyết giai cấp đấu tranh và hình thái xã hội một cách sống sượng cũng đã ít nhiều nhường chỗ cho hệ quy chiếu lấy dân tộc nhân dân nhân bản làm gốc. Đúng là đang có sự biến động và phồn tạp đa chiều trong đời sống văn học hôm nay. Dĩ nhiên, tại những nước mà ở đó sự kết hợp giữa nhà nước pháp quyền đích thực và chế độ tự do cá nhân đã thành nền nếp thì chuyện bá nhân bá ý như thế là hết sức bình thường. Còn ở nước ta đang trên đường từ giã cái thời bao cấp kinh tế kéo theo cả bao cấp tư tưởng để cố gắng xây dựng một nền dân chủ không ít vất vả thì ít nhiều vẫn thành chuyện. Ở đây, một câu hỏi có thể đặt ra cho các nhà lãnh đạo văn học nghệ thuật hôm nay, liệu các vị có thể khôi phục lại được một tình hình văn học nghệ thuật êm ả đơn chiều trên đất nước mà được chấp nhận như ngày nào nữa không. Đúng là khó thật trước tình hình phồn tạp, đa chiều của đời sống văn học, cũng là đời sống tư tưởng của đất nước hôm nay. Riêng Hội đồng lý luận văn học nghệ thuật trung ương thì xem ra đang cố gắng làm một cái gì đó cho nền văn học nghệ thuật nước nhà nhưng vẫn phải chờ xem sẽ là gì? 2.2. Trong sáng tác, sự phồn tạp đa chiều cũng khá rõ bởi thời đại đã cho nó một môi sinh rộng mở nhiều so với trước, một cơ sở mà ngày trước chưa có là văn hóa mạng. Thực tế đã có những tác phẩm mà như ngày trước là không thể có mặt nhưng nay thì nó vẫn nằm nhan nhản đó đây mà không cần kể ra thì quý vị cũng đã thừa biết và số phận của những tác phẩm đó là thế nào cũng không phải là chuyện đơn giản với thời gian. Nhìn chung thì thấy tình hình sáng tác văn học của nước nhà hiện nay cũng rôm rả và biến động khác trước nhiều cả ở văn xuôi, cả ở thơ ca. Mà trong đó thấy nổi lên một khát vọng đổi mới mãnh liệt nhưng thành tựu đã có được gì thì vẫn phải chờ đã. Trong đó, không kể khuynh hướng coi trọng sự đổi mới hình thức mà trước hết là đổi mới con chữ xuất phát từ quan điểm ngôn ngữ là công cụ số một của văn chương, nghệ thuật văn chương trước hết là nghệ thuật của ngôn từ. Về nội dung thì giường như có mấy khuynh hướng chủ đạo trong sự đổi mới văn học như sau: a) Mạnh dạn theo hướng hiện thực phê phán: Đúng như nhà văn Nguyễn Khải đã nói nền văn học nước ta đã có Cái thời lãng mạn mà ở đây cách hiểu ý của nhà văn xem ra cũng không đơn giản. Có thể ai đó sẽ cho như thế là vô bổ phải từ bỏ. Còn tôi thí đồng ý là phải vượt qua thời lãng mạn nhưng không coi nó là hoàn toàn vô bổ. Bởi mỗi thời có một yêu cầu đối với văn chương nghệ thuật. Trong hai cuộc kháng chiến gian khổ và khốc liệt ghê gớm như thế mà không lãng mạn, không nâng bổng tâm hồn, tâm lý của người dân lên như thế thì lấy đâu ra sức mạnh đánh thắng kẻ thù. Khoa học tâm lý chẳng đã nói đến sức mạnh của tâm lý kể cả vai trò của ảo giác ảo tưởng trong sự sống con người. Dĩ nhiên, hết chiến tranh, trở lại cuộc sống đời thường mà cứ lãng mạn một chiều thì lại thành dối trá, có tội với nhân dân với lịch sử. Theo dõi tình hình sáng tác văn học, kể cả kịch bản sân khấu, kịch bản phim gần đây, dễ thường phải kết luận chưa bao giờ văn học hiện thực phê phán lại phát triển bề thế, dám chọc trời như hôm nay. Nó thẳng thừng hơn nhiều so với dòng văn học hiện thực phê phán thời 30-45 của thế kỷ trước dù rằng độ kết tinh nghệ thuật thì vẫn là đàn em. b) Đề cao việc khám phá cái Tôi trong sáng tác nhưng trước hết là tìm cách khẳng định cái Tôi của chính mình. Tham dự một vài lần ngày Hội thơ đầu năm tại Văn miếu Hà Nội, ở khu vực dành cho các nhà thơ trẻ, tôi thấy nhà thơ nào cũng tuyên bố tôi tìm tôi, tôi phải là tôi. Trước sự thật đó, tôi cứ thèm giá gì mình cũng có được chút đỉnh tài thơ như các bạn trẻ đó nhưng vẫn muốn được hỏi lại các nhà thơ trẻ rằng: đã đi vào văn học thời nay dĩ nhiên phải coi trọng cái Tôi và phải khẳng định được cái Tôi nhưng hiểu về cái Tôi thế nào là hoàn chỉnh tối ưu? Và để có được những thành quả văn chương bất hủ như những gì cha ông thuở trước đã có, nhân loại đã có thì ngoài việc hướng vào cái TÔi, còn cần những gì nữa không? Trong khi, đó là chuyện hoàn toàn không đơn giản. Chả phải là chung quanh định nghĩa thế nào là thiên tài văn chương vẫn còn không kém phần phức tạp và bí hiểm đó sao. c) Đi vào đề tài sex một cách trần truồng mà dư luận độc giả trước hiện tượng này cũng không đơn giản. Người thích người không thích vốn có liên quan đến tâm lý tiếp nhận của các thế hệ tuổi tác và trình độ văn hóa khác nhau. Không dấu gì quí vị, trước một tác phẩm như Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu mà nhà văn Nguyên Ngọc và nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đều rất mực đề cao, đặc biệt nhà văn Nguyên Ngọc đã cho tác phẩm có những giá trị lớn hơn cả vấn đề thân phận con người trong khi với tôi thì xin phép tác giả Bóng đè và nhà văn Nguyên Ngọc được nói thật là không thể chấp nhận tác phẩm này. Tôi tự hỏi sao giữa mình với nhà văn Nguyên Ngọc lại có sự trái ngược nhau quá đáng thế ? Mình quá dốt nát, quá lạc hậu, bảo thủ trong khả năng nhận biết giá trị văn học ư?. Đúng là có qui luật cộng hưởng trong tiếp nhận nghệ thuật phồn tạp và đa chiều. Thôi thì đành chấp nhận Nguyên Ngọc là Nguyên Ngọc, tôi là tôi. Chả ai bắt được ai giống ai. III. Và đôi điều tôi muốn nói 1. Hẳn là chúng ta phải thừa nhận rằng với thời đại hôm nay về pháp luật thì dứt khoát mọi người phải tuân thủ nhưng về tư tưởng thì ai nấy có quyền tư tưởng riêng. Cái thời mà trong học thuật, một khi có vị lãnh đạo cao cấp nói rằng “Nho giáo là phản động. Dân tộc ta sở dĩ tồn tại được là nhờ chống được Nho giáo”, hay như trong đời sống văn học nghệ thuật, các nhà lãnh đạo nói rằng văn học nghệ thuật phải phục vụ chính trị nhưng không nói rõ thế nào là phục vụ chính trị chính đáng và không chính đáng…mà mọi người đều phải im tiếng thì có lẽ đã một đi không trở lại. Thời đại này là thời đại hội nhập thế giới do đó trong suy nghĩ của con người không thể không ít nhiều có sự so sánh thế giới, không riêng gì với trí thức văn nghệ sĩ mà cả với người dân bình thường. Một cụ già người Mèo sống trên rẻo cao không hề biết chữ, một hôm xuống núi đi chợ, chiều hôm trước xem phim một nước nào đó của thế giơi có đường sá thênh thang rộng lớn mà tự nhiên buột ra câu nói: đường bên nước họ rộng đẹp hơn bên nước mình. Thì đúng là đã hàm chứa sự so sánh thế giới điều mà vĩ nhân ở thế kỷ XV như Nguyễn Trãi cũng chưa có vì lịch sử chưa cho phép.Thời đại này là thời đại trổi dậy của cái Tôi cá thể (L individu) trong đó có tư duy cá thể đúng theo luận điểm của Descartes: “ Je pense donc je suis” (Tôi tư duy ấy là tôi tồn tại) mà không có được điều đó thì đừng hòng nói gì đến sự phát triển đất nước cho ra phát triển. Thời đại này phải là thời đại của tinh thần duy lý, của tư duy phản biện, tư duy đối thoại, tư duy thuyết phục…chứ không phải là tư duy cảm tính, tư duy áp đặt. Từ đó là thời đại mà mọi người phải tuân theo pháp luật của nhà nước cần được xây dựng trên nền tảng nhân bản và dân chủ để rồi tự mình suy nghĩ, tự mình tìm chân lí. Không ai có thể bắt mình phải ăn theo nói leo. Đúng là như thế nhưng ở đây lại có vấn đề cũng không kém phần cơ bản là làm sao mỗi cá thể có thể nghĩ đúng, tư duy đúng để hành động đúng. Rõ là từng cá thể phải có trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa, càng cao bao nhiêu càng lợi cho mình bấy nhiêu. Muốn thế lại phải học người, nghe người, để từ đó không theo đuôi người mà tự lựa chọn để tìm đến chân lý một cách có bản lĩnh. Không dấu gì quý vị, qua vài lần nghe một số nhà thơ trẻ hào hứng tự khẳng định cái TÔI ở ngày Hội thơ tại Văn Miếu, tôi cứ thấy thiếu cái vế sau mà tôi đang muốn nói đó. Mà thiếu vế sau đó thì không chừng dễ sa vào sự kiêu ngạo ngông nghênh chỉ đáng buồn cười. 2. Điều thứ hai tôi muốn nói là chung quanh vấn đề cũ mới trong văn học. Cũ mới là vấn đề của cuộc sống. Cũng là vấn đề của văn học nghệ thuật, Riêng với văn chương nghệ thuật, đổi mới là thuộc bản chất của sự sáng tạo. Kẻ thù của văn học nghệ thuật là sự trùng lặp, là sự cũ kĩ. Chưa bao giờ, trên đất nước ta lại có khát vọng đổi mới văn học một cách nồng nhiệt như hôm nay, nhất là với những cây bút trẻ. Nhưng thế nào là đổi mới một cách chính đáng thì lại đang có vấn đề. Trong thực tiễn sáng tác văn học theo khát vọng đổi mới hôm nay chẳng đã vừa hay vừa dở, chưa đủ độ chuẩn xác để khả dĩ làm nên những tác phẩm lớn. Mà có một nguyên nhân là muốn đổi mới nhưng chưa thật hiểu đúng đổi mới. Nhiều người khi nói đến đổi mới thường hay nhắc đến luận đề của Héraclit: “người ta không bao giờ tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Và hiểu rằng với dòng sông đó thì nước luôn luôn chảy không ngừng, nghĩa là chỉ có mới mà không có cũ. Tôi cho rằng hiểu như thế là chưa chính xác. Bởi ở đây, đành là nước luôn chảy nhưng vẫn còn dòng sông. Mà cuộc sống là thế. Vừa có biến vừa có bất biển, vừa có cái mới vừa có cái vĩnh hằng. Con sông là vĩnh hằng dù rằng nước sông thì luôn chảy, nghĩa là luôn mới. Cho nên, nếu ai đó hôm nay mải mê đeo đuổi với sự cách tân nghệ thuật mà bỏ quên những giá trị vĩnh hằng thì hẳn là dễ rơi vào thế bấp bênh trong nghệ thuật. Đúng ra, bên cạnh khát vọng đổi mới, phải có thêm khát vọng làm sống lại những giá trị vĩnh hằng một cách chân chính dù không đơn giản. Xin hãy đổi mới từ những giá trị vĩnh hằng và từ đổi mới tạo thêm những giá trị vĩnh hằng để đất nước được nhờ. Rồi nữa, thế nào là mới. Hẳn là mọi người đã nhất trí rằng cách tân, tạo ra những giá trị mới vốn là quy luật tồn tại, là bản chất của nghệ thuật cả trên hai phương diện nội dung và hình thức. Nhưng sự cách tân nghệ thuật lại có hai trạng thái: cách tân trong nội bộ một phạm trù văn học và cách tân làm thay đổi một phạm trù văn học. Lịch sử văn học viết Việt Nam ta cho đến nay chỉ có hai phạm trù là trung đại và hiện đại. Trung đại là từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Hiện đại là từ đầu thế kỷ XX đến nay. Phạm trù văn học là khái niệm có nội hàm bao gồm ba bộ phận. Thứ nhất gồm: những yếu tố gián tiếp liên quan đến văn học: hình thái xã hội, hình thái văn hóa, ý thức hệ thời đại. Thứ hai: gồm những yếu tố trực tiếp liên quan tới văn học: chữ viết, phương tiện ghi chép và in ấn, báo chí, phương thức lưu hành (chưa hoặc đã gắn với kinh tế hàng hóa), lực lượng sáng tác, công chúng văn học. Thứ ba: gồm những yếu tố thuộc bản thân văn học: cơ cấu của nền văn học, hệ thống quan điểm văn học, những cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học, hệ thống thể loại thể tài và bút pháp của các thể loại thể tài văn học, phong cách ngôn ngữ văn học, những quy luật kết tinh mang tính đặc thù của phạm trù văn học.Thành tựu của văn học Việt Nam ở nửa đầu thể kỷ XX là thành tựu đổi mới cách tân làm thay đổi lịch sử văn học Việt Nam ta từ phạm trù trung đại mang tính chất khu vực sang phạm trù hiện đại mang tính chất toàn cầu. Văn học Việt Nam sau 1945 dù có nhiều đổi mới cách tân nhưng vẫn thuộc phạm trù hiện đại. Còn với văn học hôm nay là gì khi nói đến sự đổi mới, cách tân? Rõ ràng vẫn là chuyện cách tân đổi mới thuộc phạm trù hiện đại. Phải nói rõ ra như thế để ai đó đừng quá ảo tưởng sẽ làm được cái điều mà văn học nửa đầu thế kỷ XX… đã làm được. Đâu đó có nói đến hiện đại và hậu hiện đại thì đúng là có sự đổi mới khác nhau giữa hiện đại và hậu hiện đại, nhưng hãy nhớ cho rằng giũa hai thứ đó vẫn có chung chữ hiện đại. Tôi cầu mong ở sự đổi mới văn học hôm nay nhưng tôi không bao giờ nghĩ rằng sẽ có một kết quả đổi mới cách tân như văn học nửa đầu thế kỷ XX đã có. Còn tương lai xa nữa là thế nào thì chưa biết. 3.Về chuyện cái TÔI (L’individu) trong văn học. Đúng đây là một trong những vấn đề cốt lọi nhất của văn chương nghệ thuật nói chung nhưng trước hết là vấn dề của cuộc sống con người ở mọi đất nước trong đó có nước Việt Nam ta mà trình độ nhận thức và thực tiễn giải quyết vấn đề đã không đồng đều, Có thể nói được rằng ở vấn đề này, phương Tây đi trước phương Đông. Riêng ở nước ta, cứ qua văn học mà thấy thì nó quá chậm. Chẳng những thế mà hôm nay xem ra cũng chưa có sự tường minh tới mức cần có. Trong lịch sử văn học Việt Nam, đến nửa sau thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỹ XIX, mới thấy cái TÔI có mặt trong các tác phẩm như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và dịch phẩm của Đoàn Thị Điểm (?), Truyện Kiều của Nguyễn Du,, Khuê ai lục của Ngô Thời Sĩ, Đoạn trường lục của Phạm Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, thơ Hồ Xuân Hương, thơ văn Nguyễn Công Trứ…Riêng cái TÔI đạo đức vốn là sản phẩm của truyền thống đức trị của phương Đông với các học thuyết của nó đặc biệt là Nho giáo thì đã có mặt từ lâu đời nhưng vẫn chưa hẳn là cái TÔI mà ở đây đang nói tới. Đừng lẫn lộn hai khái niệm: vấn đề cái TÔI (L’individu) trong văn học và hiện tượng cái tôi trữ tình trong văn học đặc biệt là trong thơ ca. Bởi lẽ, một bên thuộc khách thể trong sự sống con người mà tới một giai đoạn nào đó văn học mới nhận thức được để khám phá, chiếm lĩnh. Một bên thuộc chủ thể cảm xúc, trữ tình của người cầm bút vốn là thuộc tính muôn đời muôn thuở của văn chương nghệ thuật nhất là ở thể loại trữ tình, ở thơ ca từ ngày có mặt. Cái TÔI viết hoa có mặt buổi đầu trong văn học Việt Nam ta chậm nhưng khá xinh đẹp vì nó kết hợp hài hòa được với cái TA. Cứ nhìn vào hình tượng Thúy Kiều thì rõ. Thúy Kiều là hình tượng nghệ thuật hội tụ được nhiều giá trị nhân bản nhất trong những hình tượng phụ nữ của lịch sử văn học Việt Nam xưa nay trong đó có giá trị về sự trổi dậy của cái TÔI.[1] Nhưng ngay sau đó, đất nước bị xâm lăng, cái TÔI đã phải nhường chỗ cho cái TA là số phận đất nước. Sang đầu thế kỷ XX, trong hoàn cảnh xã hội thực dân phong kiến, giai cấp tư sản đã có mặt dù là dưới chế độ thuộc địa, lại có thêm ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng tư sản phương Tây tràn tới, cái TÔI lại tái xuất, tuy không kết hợp được với cái TA hài hòa như thời Nguyễn Du nhưng tự giác hơn và cũng bề thế hơn để làm cơ sở tư tưởng, cơ sở triết học cho sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn, phong trào Thơ Mới, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh…Cách mạng tháng Tám thành công, chưa gì đã phải đương đầu với hai cuộc kháng chiến khốc liệt. Trong hoàn cảnh đó, theo qui luật của cuộc sống Việt Nam, cái TÔI lại phải nhường chỗ cho cái TA. Nhưng một khi đất nước đã hòa bình thống nhất, cuộc sống trở lại đời thường thì cũng theo quy luật, cái TÔI sẽ tái xuất. Không ít trong số tác phẩm được nhắc tới ở tiểu mục Mấy trang đầu đã hé mở vẻ đẹp nói ở trên có phần là nhờ ở sự tái xuất cái TÔI. Khát vọng nồng nhiệt về cái TÔI của các nhà thơ nhà văn trê hôm nay cũng là sản phẩm chính đáng của sự tái xuất đó. Vấn đề ở đây là phải làm sao có được sự nhận thức cho thật thấu đáo, thật tường minh đích đáng về cái TÔI để có cơ sở vững chắc cho sự đổi mới chứ không thể như hiện thời. Phải thấy cái TÔI là tế bào làm nên mọi hình thái cơ thể tức là mọi hình thái cộng đồng xã hội mà muốn khỏe mạnh thì phải có các tế bào khỏe. Đó là chân lí tối thượng trong mọi cộng đồng, mọi quốc gia. Nhưng ở đây lại có điều rất phức tạp, đã gây rắc rối cho nhân loại là vì từ một cái TÔI cá thể, trong thực tiễn cuộc sống nhân loại, lại đi theo hai hướng. Một hướng nhân bản cần cầu nguyện cho nó trổi dậy sớm ngày nào hay ngày ấy. Một hướng là phi nhân bản mà phải quyết tâm tiêu diệt. Trong hướng nhân bản, cái TÔI vẫn là cái TÔI nhưng có một phương diện dứt khoát không thể thiếu là sự kết hợp hài hòa giữa cái TÔI và cái TA. Thiếu sự kết hợp TÔI-TA một cách chính đáng thì dễ thường sẽ rơi vào hướng phi nhân bản là cái TÔI ích kỷ, khốn nạn đang phá hoại cuộc sống của nhân quần, của đất nước. Có hai thuật ngữ cũng không được lầm lẫn: cá nhân (cái TÔI- L individu, Le Moi) và cá nhân chủ nghĩa (L individualisme).[2] Không dấu quý vị, đọc bài bút ký Đi tìm cái TÔI đã mất của nhà văn quá cố Nguyễn Khải, tôi thú vị và kính nể tâm huyết, bút lực của nhà văn nhưng chỉ tán thành một nửa không tán thành một nửa. Nửa tán thành là sự xót xa đã để mất cái TÔI. Nửa không tán thành là ví chưa thấy nhà văn nghĩ đến mối quan hệ hài hòa tối cần giữa cái TÔI và cái TA trong khi cái TA tuy có mặt bất chính nhưng vẫn có nhiều mặt chân chính cần được cái TÔI góp phần vun đắp như chính nhà văn đã làm dù còn phải chịu sự sàng lọc trong thời gian. 4. Về chuyện sex trong văn chương nghệ thuật: loài người được tạo hóa sinh ra vốn mang tính tự nhiên sinh học trước khi mang tính xã hội. Và khi mang tính xã hội vẫn có tính tự nhiên sinh học. Thế nhưng sự nhận thức về con người tự nhiên sinh học giữa phương Tây và phương Đông trong đó có Việt Nam ta cũng lại sớm muộn và không giống nhau. Dĩ nhiên trong thời đại hôm nay, một khi đã có sự hội nhập thế giới mãnh liệt, thế giới đang trở thành “phẳng” thì khoảng cách đó đã được rút bớt. Ở phương Tây, từ rất sớm, đặc biệt là từ thời Phục hưng vào thế kỷ 15, 16, sự nhận thức và từ đó là sự khám phá con người tự nhiên, con người sinh học, con người chưa mặc quần mặc áo đã là một thành quả nhân văn chủ nghĩa cao cả để có được một nền nghệ thuật khỏa thân sáng giá và là niềm tự hào của nhân loại. Tất nhiên, ở phương Tây, trước hiện tượng con người tự nhiên sinh học, trong thực tiễn, cũng lại đã đi theo hai hướng: nhân bản và phi nhân bản. Nhân bản là sự thăng hoa giá trị người. Phi nhân bản là kéo con người trở về thú tính, động vật. Còn ở Việt Nam ta là thế nào? Đành rằng đã tồn tại văn hóa phồn thực ở nơi này nơi khác trong việc thờ linga. Nhưng riêng trong văn học thì xem ra là một sự né tránh. Câu chuyện Chữ Đồng Tử có hé ra chút ít về con người khỏa thân nhưng cụ thể là gì thì chưa rõ. Mãi đến khi thiên tài Nguyễn Du viết Truyện Kiều thì quả thật lần đầu tiên, văn học Việt Nam mới có được một bức tượng khỏa thân tuyệt vời của phụ nữ và là bức tượng khỏa thân độc nhất vô nhị của văn học Việt Nam trung đại: “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà / Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Táo bạo đến như nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì cũng chỉ he hé ra chút ít do có sự sơ ý của Thiếu nữ ngủ ngày mà thôi. Ngoài ra, gọi là văn học sex trong văn học Việt Nam ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, không thể không nhắc lại mấy câu thơ về chuyện chăn gối trong quan hệ vợ chồng của Chinh phụ ngâm: “Cái đêm hôm ấy hôm gì/ Bóng trăng lồng bóng đồ mi trập trùng/ Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm/ Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông/Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng/ Trên hoa dưới nguyệt trong lòng xiết bao”. Và thơ Hồ Xuân Hương với những câu như: “Cán cân tạo hóa rơi đâu mất / Miệng túi càn khôn khép lại rồi”, “Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không”. Đúng là sex chứ còn gì nữa. Nhưng điều đáng nói ở đây là từ bức tượng khỏa thân của Thúy Kiều cho đến những câu thơ của Chinh phụ ngâm, Hồ Xuân Hương vẫn là chuyện hở nhưng kín và hướng chung là mỹ hóa. Phải chăng đó là một cách để giữ lấy sự trong sáng trước hết cho tâm hồn mình rồi nữa cho tâm hồn người tiếp nhận và đó là hướng nhân bản cao cả trong văn học sex. Trước bức tượng khỏa thân tuyệt tuyệt vời Thúy Kiều, người đọc đố ai biết được nó cụ thể là thế nào để vẽ lại. Nó chỉ tạo cơ sở cho mình tha hồ suy tưởng để mà ngây ngất, ngất ngây với nó. Thế là đủ. Chứ trần truồng ra, dễ thường sẽ rơi vào trạng thái nhục cảm động vật đơn thuần. Còn với văn học sex hôm nay ở nước ta là thế nào? Nhìn chung, thấy nó trần truồng quá, nó hở hoác ra cả mặc dù nó có công chúng nhất định. Đó đây đã có luận văn luận án về văn học sex trong đó đồng tình hơn là băn khoăn, thắc mắc. Nhưng liệu có thể an tâm với tình trạng đó hay là phải nghĩ khác. Mong được các tác gia văn học sex hôm nay nghĩ lại và thử so sành cách xử sự của mình hôm nay với cách xử sự của cha ông thưở trước, xem cách nào là có lợi cho cuộc sống hơn, cho đất nước hơn. Cũng mong các bạn đừng phe lờ sự thật là bên cạnh những người tán dương các bạn vẫn có những người cho rằng không phải là tất cả nhưng có một loại văn học sex hôm nay ít nhiều dính dáng với loại tranh ảnh và phim sex đã phá hoại thuần phong mỹ tục và dãn đến nhiều chuyện khủng khiếp mà báo chí hàng ngày vẫn đưa tin. Riêng tôi chỉ muốn nói lại cái ý đã nói : thời đại này là thời đại của sự lựa chọn. Mà muốn lựa chọn tối ưu thì chỉ chạy theo cảm hứng không thôi là hoàn toàn chưa đủ. Phải học hỏi thêm, phải nghe thêm người khác, phải có văn hóa thêm, phải suy đi tính lại để có sự lựa chọn tối ưu. 5. Vấn đề đổi mới để góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Làm gì cũng phải có mục tiêu. Không rõ những người đang nhiệt tâm đổi mới văn học đã nghĩ gì nhiều về mục tiêu chưa. Vì một giá trị nhân bản mới ư? Vì muốn hiện đại hóa, hậu hiện đại hóa văn học nước nhà ư? Đúng đấy! Nhưng nói gì thì nói, cũng phải nghĩ nhiều, nghĩ trực tiếp đến sứ mạng xây dựng cho đất nước một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi đây là vấn đề sinh tử của Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta hôm nay. Cứ tưởng tượng rằng trong cuộc hội nhập thế giới sôi động chưa từng có này, đất nước sẽ giàu có lên nhiều nhưng về văn hóa mà không còn gì là bản sắc dân tộc nữa thì ý nghĩa cuộc sống sẽ là gì ngoài sự vô nghĩa. Một khẩu hiệu lớn đã được đề ra: “Hòa nhập mà không hòa tan”. Nhưng thực tiễn cuộc sống trong đó có văn chương nghệ thuật đang diễn ra là gì nếu không phải là nguy cơ bị hòa tan đang ngày một rõ nét. Ai sẽ chịu trách nhiệm trước hiện tình này? Dĩ nhiên trước hết là những người lãnh đạo đất nước. Nhưng còn toàn dân, trong đó có giới văn nghệ sĩ. Với cách đặt vấn đề như vậy, ở đây tôi muốn được những nhà văn nhà thơ trẻ đang khát khao đổi mới văn học hãy cùng suy nghĩ về một vấn đề vô cùng tai hại trong lịch sử đã gây nên sự hao hụt trầm trọng bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam mà tiếc rằng cho đến nay từ các nhà hoặch định chính sách văn hóa cũng như hầu hết người Việt Nam ta, kể cả số đông trí thức văn nghệ sĩ chưa nhận ra để có biện pháp khắc phục trong khi muốn xây dựng một nền văn nghệ đậm đà bản sắc dân tộc. Có thể nói không sợ sai rằng chừng nào mà chưa nhận ra vấn đề này thì chừng đó khó mà ngăn chặn được sự hòa tan . Đó chính là sự áp đảo của phương Tây đối với phương Đông trong đó có Việt Nam ta trên phương diện văn hóa và tinh thần[3] từ khi có cuộc “ mưa Âu gió Mỹ”, có sự giao lưu Đông Tây, đặc biệt rõ rệt là từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay. Quả thật như thế. Quy luật về sự áp đảo là quy luật về mối tương quan giữa kẻ mạnh và kẻ yếu. Mạnh nên áp đảo được. Yếu nên bị áp đảo. Nhưng kẻ mạnh không phải cái gì cũng hay. Ngược lại kẻ yếu không phải cái gì cũng dở. Có điều là một khi đã bị áp đảo thì cái dở của kẻ mạnh cũng thành chiến thắng và cái hay của kẻ yếu cũng thành chiến bại. Lịch sử văn hóa Việt Nam ta từ khi có cuộc giao lưu Đông Tây, đặc biệt là trong gần một trăm năm nô lệ người Pháp là vậy trên mọi phương diện: từ triết lí nhân sinh cho đến đời sống chính trị, thiết chế xã hội, y học, y phục, thể thao, võ thuật, trò chơi, quan điểm nghệ thuật, lý luận văn chương, phê bình văn học…ít nhiều là thế. Cách mạng tháng Tám thành công, ý thức dân tộc có được trổi dây đáng kể nhưng cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng bị áp đảo. Nói như trên không có nghĩa là phủ nhận sự nâng đỡ cũng rất lớn lao của văn hóa phương Tây trong công cuộc hiện đại hóa văn hóa văn học Việt Nam, Thêm nữa lại có chuyện thay chữ viết Hán Nôm bằng chữ quốc ngữ trong khi cả khu vực không nước nào thay chữ viết mà lâu nay người Việt Nam ta chỉ thấy cái được rất lớn mà chưa thấy cái mất cũng không nhỏ. [4] Hãy chú ý đến điều mà cố đạo Puginier là người từng hăng hái cổ động chính quyền thực dân Pháp ở Đông dương thay chữ viết đã nói: “thay chữ viết là thay cả một nền văn hóa”. Và chính Toàn quyền Pháp tại Đông dương là Decoux năm 1943 cũng đã nhận tội “thay chữ viết là làm cho con cháu người Việt Nam hôm nay không hiểu gì tổ tiên của mình nữa”. Đúng là thay chữ Hán Nôm bằng chữ quốc ngữ thì cái được rất lớn là dân chủ hóa được nền văn hóa văn học nhưng cái mất cũng không nhỏ là tạo nên sự gián cách lịch sử rất tai hại. Các nhà văn nhà thơ đang hăm hở đổi mới văn chương hôm nay nghĩ gì trước sự thật oái oăm đó. Liệu các bạn có nghĩ đến sứ mạng cao cả là đổi mới văn chương để góp phần phục hồi lại những giá trị văn hóa, tinh thần mà dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta trải qua mấy nghìn năm lịch sử đã xây đắp được nhưng đã bị những tai biến lịch sử làm hao hụt nhiều không. Ở trên, tôi có đề nghị với các bạn bên cạnh khát vọng đổi mới xin hãy thêm khát vọng làm sống lại những giá trị vĩnh hằng chính là điều liên quan tới vấn đề này. Xin thắp hương cầu nguyện và chờ mong ở các bạn là những người Việt Nam đã được Thượng đế ban cho phước lành là có nhiều năng khiếu văn chương nhưng mong được nâng cao tư tưởng và văn hóa hơn nữa trước những vấn đề đang đặt ra cho văn chương nghệ thuật của nước nhà.
 Yên Hòa thư trai Nhâm Thìn- Trọng hạ (8-2012 ) Theo Viet- studies
 Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả ........................................................
Chú thích
[1] Xem Nguyễn Đình Chú : Gặp lại “con Kiều đẹp nhất nước Nam”- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn số 1 (14) 2006.
[2] Xem Nguyễn Đình Chú: Vấn đề “ngã “ và “phi ngã” trong văn học Việt Nam trung cận đại. Tạp chí Văn học số 5 – 1999.
[3] Xem Nguyễn Đình Chú: Sự áp đảo của phương Tây đối với phương Đông trên phương diện văn hóa và tinh thần. Tạp chí Đông Nam Á số 3 (20) 1995.
 [4] Xem Nguyễn Đình Chú: Cần khẩn trương khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt Nam. Hán Nôm học trong nhà trường. NXB Khoa học xã hội. 2008, trang 16- 25.