28 thg 7, 2013

Thái Doãn Hiểu

THÂN PHỤ TÔI

 Posted on 28.07.2013 by nguyentrongtao Rate This THÁI DOÃN HIỂU Giáo sư Hương trường, Bác sĩ Đông y THÁI DOÃN TIÊN (1904-1988)

Cha tôi sinh năm Thìn (1904), và người mất cũng năm Thìn (1988). Những hai con Rồng cơ đấy! Ông cưỡi Rồng đến với thế giới hoang dã này và giã từ thế kỷ máu lửa đầy giông bão này cũng trên mình Rồng. Nhưng rất tiếc con Rồng của cha tôi chỉ là Rồng Đất, Rồng giáng chứ không phải Rồng thăng. Bạn thử nhìn kỹ coi. Nó không có vảy, nghĩa là Rồng lươn như thời nhà Lý. Nó chỉ giỏi bò và trườn hệt lươn. Náu mình trong đầm phá, bao phen Rồng cất mình bay là là trên mặt nước rồi bổ nhào đâm đầu cắm xuống bùn, suýt chết. Năm 2000, đón chào thiên niên kỷ mới anh em nhà chúng tôi dù tứ tán khắp nước nhưng đều nhận được tập hồ sơ tù của cha tôi Thái Doãn Tiên cùng chú Út Thái Doãn Nghiên do Viện Bảo tàng Xô viết Nghệ Tĩnh gửi. Thật xúc động khi nhìn gương mặt trẻ của cha chú đầu trọc lốc, gầy gò, mặt rầu rầu trong tư thế chụp chính diện hay chụp nghiêng…
 Do mối quan hệ tốt đẹp thế nào đó, Chính phủ Pháp có thiện ý giao cho phía Việt Nam 300 hồ sơ tù nhân trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 của Sở Mật thám Đông Dương tàng trữ ở Paris. Danh sách có đăng báo Nghệ An. Cha tôi lãnh bản án 5 năm tù cấm cố với tội danh “Trong hỏi cung khai là đảng viên đảng cộng sản Đông Dương, chi bộ Vầng Hồng”. Thật dám làm dám chịu đúng tinh thần thượng võ của một con người trung trực. Khai làm cộng sản thì tù mọt gông chứ chẳng chơi. Xót con, bà nội Hoàng Thị Nguyên phải bán không biết bao nhiêu mậu ruộng chạy đôn chạy đáo mới lo lót cứu hai anh em ra khỏi tù, thoát chết, sau 2 năm bị nhốt xà lim Vinh.
Sau 12 năm ngâm cứu, nhờ sự kiên trì của cháu Thái Thị Hải Châu với tất cả lòng yêu kính ông nội, ngày 18-2-2012, từ Thành phố Vinh, Ban Thường vụ tỉnh ủy Nghệ An ra quyết định 1545- QĐ/TU công nhận Đồng chí Thái Doãn Tiên (1904-1988) Nhà giáo, Bác sĩ Đông y quê xã Yên Lăng, huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An (nay là xã Thịnh Sơn huyện Đô Lương) là Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương vào Đảng năm 1931, nguyên là cán bộ hoạt động cơ sở có thời gian hoạt động cách mạng từ 1928 đến 1931. Gia đình đồng chí Thái Doãn Tiên được hưởng chế độ đãi ngộ đối với bậc lão thành cách mạng trước 1-1-1945 kể từ ngày ký quyết định. Kèm theo là 50 triệu đồng. Thay mặt Ban thường vụ, Phó bí thư thường trực. Đã ký Trần Hồng Châu.
 Bao nhiêu biến thiên dâu bể cuộc đời. Cha ơi, cha không còn sống để thấy sự kiện lớn ngày hôm nay. Cha được chiêu tuyết rồi ! Cha sống lại rồi ! Bao nhiêu tháng năm dài dằng dặc cha ngậm oan để sống. Cha bị nghi ngờ, xét nét, hành tội bởi những người lãnh đạo chính quyền. Họ vẫn giao việc như Chủ tịch làng Kim Liên khi cướp xong chính quyền, Trưởng ban Bình dân học vụ xã Yên Hòa trong chiến dịch diệt giặc dốt 1946-48…Bác sĩ đông y Thường trực trạm xá xã 27 năm… nhưng họ không tin. Họ hành xử theo cương lĩnh Xô Viết Nghệ Tĩnh do Trần Phú thảo “Trí, phú địa hào đào tận gốc xốc tận rễ..”, xem ông là phần tử trí thức xấu – kẻ thù của giai cấp cần loại bỏ. Họ xử tệ với cha tôi bằng những hành vi thô bạo nhắc lại thêm đau lòng.
 Các con của ông cấm không được học bất cứ một trường đại học nào, không được vào đảng trong tiến trình chúng tôi cúc cung đi theo cách mạng. Trong lý lịch đi học Đại học sau khi rời quân ngũ của tôi, hồ sơ mật bí thư TD Ngữ bịa tạc ghi “ông bố tổ chức tập toàn phú hữu chống phá cách mạng”. Việc vào đảng của mấy anh chị tôi mới bi đát hơn : anh Sửu 33 năm 5 làm đối tượng Đảng, Chị Thanh 35 năm đối tượng Đảng. Anh Hảo 25 năm đối tượng Đảng. Chỉ có anh Sửu kiên trì nên thành công. Trời, thời đó mà có một đạo bùa chú như thế này hôm nay thì chúng tôi đâu đến nỗi long đong lên bờ xuống ruộng. Không phải riêng cha tôi mà cả 7 anh chị em chúng tôi nữa đều là nạn nhân của các đồng chí của cha tôi!
    Cũng may, Xô Viết Nghệ Tĩnh thất bại bị dìm trong bể máu, nếu nó thắng lợi thì còn đau biết gấp mấy lần cho anh trí thức? Cho đến tận ngày mất, chưa bao giờ thấy cha tôi khoe với các con tao là “đảng viên Cộng sản” như một vinh danh thời thượng. Hình như có uẩn khúc gì đấy, ông ém nhẹm giấu tiệt điều này tài thế. Chỉ có chuyện này thì ông kể say sưa : ông bị nhốt cùng một xan với cụ Hồ Tùng Mậu và Tôn Quang Phiệt. Mấy ông trí thức hay chụm đầu vào nhau bàn bạc chuyện quốc sự. Bọn cai ngục thấy bất an bất lợi, tách mỗi người ra một khám. Không được trò chuyện với nhau cũng buồn, cha tôi nẩy ra sáng kiến khi đi tiêu, nhặt những tờ báo người ta chùi khu có tít chữ lớn giữ lại. Khi muốn thông tin cho các cụ, chỉ cần kết nối các con chữ lại với nhau trên một tấm bảng. Vì phát minh này mà các cụ bị bọn cai ngục đàn áp cho ăn một trận mưa dùi cui. Cha tôi lõa máu đầu chạm đến não di hại đến cả cuộc đời, về sau cứ hễ động trời cắn nước thì đầu lại đau như búa bổ. Ra tù cha tôi lại trở về với nghề gõ đầu trẻ, tuy có gián đoạn một thời gian tù đày.
      Mặc dầu có tì vết nhưng bọn Pháp thực dân vẫn tin dùng người. Ông tốt nghiệp trường sư phạm Bảo hộ, ra trường năm 1926 với tấm bằng ghi rất trang trọng “Giáo sư Hương trường”. Ông Giáo sư hương trường dạy học trò trường làng khai tâm phóng học đến cấp một với đồng lương đủ cho cả nhà sống sung túc: 9 đồng/ 1 tháng lương khởi điểm (2đ 8/ 1 tạ gao), vải, đường, xà phòng, thịt hộp… phát riêng.
      Ông ăn vận rất sang, mặc Tây, mặc Ta đủ cả, thích nhất là bộ quần ba ba tơ tằm màu mỡ gà do mẹ tôi nuôi tằm dệt lụa làm lên. Chân ông dận đôi dép cao su Sài Gòn trắng mỏng dính, đầu đội mũ phớt, tay cần cái ba tong và đi trong tư thế ung dung đạo cốt. Những lúc cao hứng ông làm thơ hoặc đọc cho chúng tôi nghe một đoạn văn của Bôđơle hay Veclen thật diệu nghệ, phát âm chuẩn như Tây.
     Ngày nghỉ, ông thường lên Thị trấn Đô Lương đi bát phố coi cảnh phố phường buôn bán nhộn nhịp sầm uất, kết thúc bằng một chầu phở xào giòn mà ông khoái khẩu, rồi lại thong dong bộ hành 4 kilômết về nhà. Bọn trẻ chúng tôi căn giờ đón ngoài cổng. Gặp ông là sà xuống vây quanh, thọc tay vào áo bađơxuy lôi ra những thỏi bánh mì thơm thơm mùi lúa mạch, mùi lên men chua chua. Mẹ tôi lườm lườm nhìn ông và lũ trẻ mắng yêu “Cao lâu thì cha xơi, đem về cho con những cục cơm nguội nướng”.
      Theo định kỳ, ông được tăng lương lên 11 đồng, 15 đồng…Ông giáo Thiệu (tên chị Cả) mà dân làng và học trò kính cẩn gọi như thế đã sắm được xe đạp Steclinh ngang với ông nhà giàu PhóKy. *
    Vào đầu năm 1953, xóm trên làng dưới bỗng truyền đi tin đồn: Một ông công an gộc, nghe đâu là trưởng đồn công an huyện Con Cuông sẽ biệt phái về xã Yên Hoà để đối mặt với một tên phản động gộc. Hắn về thật. Hắn là Học Mai,Thái Doãn Mai, có học chút ít nên mới gọi là Học. Hắn về chiều thì hai giờ sáng đã đến viếng ông chú họ. Lễ nghĩa quá ta ! Tên hung thần này kéo theo một đám lâu la dăm bảy đứa tay gươm, tay mác bặm trợn như lũ cướp. Học Mai vận một bộ quân phục ka ki vàng choé thưả theo lối Amêricơn bê rê trễ trên đầu, súng pachoọc chễm chệ bên hông, nòng dài quá đầu gối, giày săng đá với những hàng đinh dày lộp cộp nghiến trên nền gạch. đến ghê. Hắn đập cửa rầm rầm, dựng cả nhà dậy. Mọi người nhà tôi ngái ngủ tưởng trời sắp sập. Học Mai cất cái giọng khê lòm rin rít qua hai hàm răng sít sịt đều đặn trắng nhởn như bắp ngô : - Lệnh bắt người và khám nhà. - Lệnh của ai !Vì tội gì ? – Mẹ tôi hỏi - Lệnh của Công an. Tội làm phản động, làm giặc. - Chứng cớ đâu ? - Chúng tao sẽ đập cho lòi cái chứng cứ ra ! - Công an không có quyền, chỉ có lệnh của Tòa án mới có hiệu lực – anh Hợi vặc lại. - Đừng lôi thôi lắm lời. Chính quyền – toà án – công an chỉ là một. Lệnh ai chẳng được. Chúng bay ! khám nhà.
      Sau hai tiếng lục soát chẳng tìm được gì khả nghi, chúng tiu nghỉu bắt cha tôi và anh Hợi đi để lại một bãi chiến trường ngổn ngang tủ, bàn ghế tanh bành, quần áo bươi chười, sách vở tài liệu rủ tằm rủ rối. Mẹ tôi ngao ngán, thở dài. Các anh em tôi chết lặng đứng như trời trồng.Cảnh cướp bóc ở nhà Vương Ông dưới chính thể mới đang tái diễn.
     Tối hôm đó, Học Mai hối thúc dân làng đến Hội quán làng mở cuộc đấu tố cha tôi. Hai cha con bị bắt quỳ dưới đất, ngứa không dám gãi. Hắn tuyên bố : - Trước mắt bà con dân làng là một tên phản động gộc. Hãy tấn công không khoan nhượng vào tên tội phạm, kẻ thù không đội trời chung của nhân dân. Theo tình báo của ta, thằng thầy giáo Nguyễn Ngạn làm việc ở ban tu thư Bộ Giáo dục đứng ra thành lập một chính phủ lâm thời phản động gọi là Cộng hòa Việt Nam. Danh sách nội các chính phủ của y gồm 15 bộ trưởng. Cách đây nửa tháng tên Nguyễn Ngạn giữ chức Thủ tướng ghé qua nhà Thái Doãn Tiên giao cho tên này chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Giáo Thiệu ! Ông có nhận tội không ? Cha tôi từ tốn: - Có lẽ các ông nhầm với ai đó. Nguyễn Ngạn là bà con đằng ngoại mẹ tôi ở Yên Thành. Cũng như Phan Đăng Diêu, ông ấy là bạn học đồng khóa sư phạm ghé thăm xã giao chứ tuyệt nhiên chẳng có chuyện tổ chức chính trị nào cả như các ông vu oan giá họa. - Vu oan giá họa à ! – Học Mai rít lên – Nguyễn Ngạn hiện đã bị bắt, đang nhốt trong lao. Để xem cái thành thực của ông đến mức nào, ông giáo ạ. Sớm muộn rồi cũng cháy nhà ra mặt chuột. Ông ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc nên ông lú lẫn chuyên đi ca ngợi văn minh thực dân. Lời ném qua câu quặng lại, gậy gộc đánh đập phũ phàng lên thân thể mảnh mai nhà nho của cha tôi. Ông bị treo ngược lên xà nhà hội quán. Thương cha, anh Hợi dùng vai đỡ cho cha khỏi mỏi, lấy thân làm chiến lũy thịt che chở cho cha mà không kín được, ông vẫn phải ăn những ngọn đòn hiểm từ mấy tay côn đồ đánh rất có nghề. Khi đưa ông về đến chỗ tạm giam thì thân thể cha tôi rũ ra như ngọn rau muống héo, máu mê bết mặt, bết tóc, toàn thân bầm dập. Các anh chị tôi phải dùng thuốc đông y xoa bóp khắp toàn thân để tan máu bầm. Đêm thứ hai lại đến. Vẫn là trò nhục hình khốn nạn đó lặp đi lặp lại. Tiếng đánh đập thình thịch, tiếng kêu thét dậy trời. Đau quá, cha tôi xin khai. Chúng cởi trói hạ cha tôi xuống đất, thì vừa lúc ông ngất đi. Chúng lấy nước ruộng hắt vào mặt. Một chốc ông tỉnh lại, ngơ ngác không nhớ ra chuyện gì đang xẩy ra với mình. Đêm thứ ba. Ngón đòn hiểm cuối cùng chúng dở dói ra là dùng lưỡi cày nung đỏ, bắt nghi phạm ngồi lên may ra nó khai.
      Chiều ấy, mẹ tôi khẩn thiết nhờ lão bộc Bon cấp tốc ra Yên Thành mời cho bằng được ông Nguyễn Ngạn lên cứu chủ. Khi quần ông Thiệu cháy khét rẹt, da thịt ông ở mông sắp chạm chiếc lưỡi cày đỏ lòm thì một tiếng thét vang lên : - Dừng tay! Ta là Nguyễn Ngạn đây. Các ông giết người vô chứng cớ. Ông đòi nhân chứng thì ta đây là nhân chứng sống. Còn gắp lửa bỏ tay người nữa không? Chúng tôi sẽ kiện các ông ra tòa về tội vu khống. Học Mai sai người xét giấy tờ, cứng họng, đuối lý, nhũn như con chi chi, len lét như rắn mồng năm. - Chúng tôi lầm. Xin lỗi. Xin lỗi ! Ngay lập tức, Học Mai buộc phải trả lại tự do cho ông giáo Thiệu. Một vài tiếng chê trách xì xầm trong đám đông “Cháu giết chú. Đồ dã thú”. Học Mai đốp cháp ngay “Chú cháu thì rồi vẫn là chú cháu, nhưng nếu là kẻ thù giai cấp của nhân dân thì tôi đây không tha”. Các anh chị tôi khiêng cái xác thoi thóp của cha về nhà. Đau và mừng. Năm ấy cha tôi mới 49 tuổi qua ba ngày tra tấn nhục hình sọm đi như ông già bảy mươi. Mẹ tôi phải khôi phục những vết bầm dập toàn thân động đến nội thương lục phủ ngũ tạng mất ba tháng trời bằng một lứa tằm chín ngào với mật ong với khoảng dăm chục chén thuốc bắc..
      * Giữa năm 1955. Cải cách Ruộng đất tràn qua quê tôi như một cơn lốc xoáy làm làng xóm xơ xác tiêu điều, con người sống trong tâm trạng nơm nớp hãi hùng, sợ Đội như sợ cọp, không ai dám túm tụm chuyện trò sợ bị liên lụy. Chính quyền xã bị vô hiệu hóa. Đội Cải cách xâu rễ bắt chuỗi với bần cố nông, đoàn kết với trung nông lớp dưới, cô lập bọn phú nông, tiêu diệtgia cấp địa chủ, thành một thế lực lớn mạnh nhất thao túng làng quê. Hoe Giao, tay bợm trạng xung đội du kích xã vác thanh đại đao trên vai, áp giải ông chủ tịch xã Tùng. Ông bị hắn trói giật cánh khỉ bằng một sợi dây thừng to tổ bố đi nghệu nghễn ngoài đường. Hắn vào nhà Hoe Hoét, sợ ông bỏ trốn hắn trói nghiến ông Chủ tịch đáng kính vào gốc dâm bụt như trói chó làm mặt ông biến sắc nhăn nhó, đứng cũng không được, ngồi cũng không xong. Tôi đi ngang qua bắt gặp cặp mắt ông van lơn thấy mà thương. Ông Chủ tịch lãnh đạo xã nhà từ sau cướp chính quyền đến giờ rất có uy tín với dân làng bởi đức độ hiền hậu và tính mẫn cán trong công việc. Ông bị tội gì đây ? Tội phản động ! Gia đình cha tôi bị quy là địa chủ thường, sau khi đã trừ đi những tình tiết giảm nhẹ vô cùng quan trọng là có người anh thứ 3 Thái Doãn Hợi quân cách mạng, vừa mới tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lẫy lừng.
        Ông bị quy kết ba tội : 1-Trí thức (biết tiếng Pháp đích thị là tay sai gián điệp của bọn thực dân Pháp; biết chữ Nho đích thị là tay chân cho bọn phong kiến), 2- Phú: Gia đình máu mặt có 7 gian nhà ngói, ao dưới vườn trên; 3- Địa: có những 2 mẫu 3 ruộng tự cày cấy. Vẫn là theo chuẩn của cương lĩnh Tổng bí thư Trần Phú vạch. Thoạt đầu cha tôi thoát án tử, rồi hạ xuống 20 năm tù giam cũng thoát nốt. Ông anh ở chiến trường đã đỡ thay cho bố thoát khỏi tử hình và tù tội, lợi hại thật. Nếu thế thì rất tiếc không động viên anh Sửu (chưa đủ tuổi) ra lính luôn – mẹ tôi tiếc rẻ – không chừng nhà ta chẳng bị thành phần cũng nên ! Ngày tịch biên gia sản đến. Một lũ khố rách áo tải 13 gã đàn ông 3 mụ đàn bà chân đất đầu trần sát khí đằng đằng, quần nâu áo cộc, tay thước tay dao xông vào nhà như chốn không người. Cha mẹ tôi bị du kích cầm gươm khống chế ngay. Họ đọc quyết định trưng mua 2/3 gia sản, đuổi cả gia đình tôi xuống mấy gian nhà ngang lợp tranh tá túc. Họ lục lạo, xô cái tủ đẩy cái ghế kêu rít lên. Ảnh chân dung của cha tôi bị giật xuống, gạch chéo mặt, vứt xuống sàn xéo lên cho hả. Tôi muốn thét lên, nhảy xổ vào thằng người thú cấu xé, nhưng sợ lưỡi gươm lăm lăm, lại thôi.
         Rút kinh nghiệm Cải cách ở Hà Tĩnh trước đó một năm, mẹ tôi là người đàn bà đảm lược, quyết không để của cải mồ hôi nước mắt của mình tạo nên lọt vào tay bọn nhác làm siêng ăn đã sơ tán triệt để những thứ quý giá cho bà con họ hàng tâm phúc giữ. Cái nào cồng kềnh quá thì thôi hoặc bán tống bán tháo.Thành thử khi Ban thu mua vào nhà thực thi công vụ thì chỉ còn cái xác nhà trống. Chúng bực tức hậm hực, truy cứu vàng giấu chỗ nào ?
        Tôi 12 tuổi và em Tâm 7 tuổi bị tách ra hai nơi để khảo vàng. “Thằng anh mày khai rồi, mày không khai tao cho một nhát gươm bây giờ.” Tâm một mực “Tui không biết”. Tôi bị một con mụ lải nhải tra khảo hoài, bực mình tôi chỉ tay lên ngọn dừa bên ao. Một thằng đầu trọc nhanh nhảu trèo lên lục lạo khắp nơi, bỗng nó la ré lên như phải bỏng, vội vàng tụt xuống gốc cây, mặt và người đầy kiến lửa. Nó chạy lại cho tôi một thoi như trời giáng vào mặt “Mày chơi khăm ông à?”. Khi vào kho khám xét, người ta không tìm thấy gì, chỉ có đôi bồ con năm 1953, anh Hợi đi dân công Thượng Lào đem về. Trong bồ có gì ? Một mớ khoai dong chuột gặm nham nhở. Nhìn sang bên có một cái sàng đựng mớ rau má khô còng queo. Ông Đội ái ngại nhìn cốt cán Hoan “Thật tao không thể tưởng tượng nổi, cả gia đình 7 miệng ăn mà không có lấy một hạt gạo !? Không hiểu chúng nó sống bằng gì ?” Đến non trưa thì cuộc khám xét trưng mua và biên bản đã hoàn tất. Cái gì tốt họ mua như 7 gian nhà lim cổ, dong, gường mođen, sập, tủ gụ, còn cái gì cũ nát không dùng được thì tống xuống nhà ngang phần gia đình bọn tôi. Họ niêm phong nhà, giao một biên bản trưng mua cho cha tôi.
      Mua nhưng không có giá tiền, không hẹn bao giờ trả tiền. Vĩnh viễn không có tiền trả ? Khi bọn đầu trâu mặt ngựa đi khỏi, tôi dùng nước thấm vào băng niêm phong mở cửa vào nhặt bức hình chân dung cha tôi. Tôi ôm vào ngực, lòng dào lên nức nở. Đứng trước phòng ngủ đêm qua của cả nhà ấm cúng là thế nay thuộc kẻ khác rồi mà cám cảnh trời đất. Về sau, tôi đã bảo vệ bức hình cha tôi cẩn thận, dùng kỹ thuật hiện đại phục chế nó hoàn hảo hôm nay mới có đăng kèm theo bài này như bạn đọc thấy đấy. Đó là bức hình cha tôi chụp trước lúc người đầu đội vòng nguyệt quế ung dung đi vào bóng tối của nhà tù đế quốc 1931.
        Cha tôi chỉ bị đưa ra Hội quán chòm đấu tố nhiếc móc một đêm. Vì chẳng có tội gì cả ngoài việc dạy chữ mở mang tâm trí bọn trẻ, ông tiệt không gây ra một ân oán cá nhân nào. Ông hiền có tiếng, đi đường hễ gặp đàn kiến hành quân qua, ông xuống xe nhấc hai bánh để không cán lên chúng. Bà con thương tình chỉ lườm nguýt qua quýt cho xong chuyện. Riêng ba gia đình lão bộc Duận, Nhã, Bon gia nhân của cố cụ Tuần tôi đều lên kể nhân đức Cố tiếp đến chuyện cha tôi đã chăm sóc họ tử tế như thế nào từ chuyện cất nhà, dựng vợ gả chồng cho con cái họ… làm ông Đội cạu mặt đuổi huầy huậy xuống đài đấu. Từng ấy cũng đủ hạ uy thế cha tôi, đường đường là một ông giáo đạo cao đức trọng. Ông co vào nội tâm sống âm thầm như chiếc bóng.
        Buồn nhất là khi đấu tố ở xã, cha mẹ tôi và chị Thanh lớn tuổi bị nhốt vào chuồng như nhốt thú dành riêng cho địa chủ. Ông thấy nhục, cúi gằm mặt xuống đầu gối. Thỉnh thoảng một gã oắt du kích vác thanh kiếm cùn đi tuần qua thét “ngẩng mặt lên, thằng kia”. Cha tôi ngửng mặt lên bắt gặp ánh mắt của thằng học trò, mắt hắn cụp lại lảng sang chỗ khác. Chiều ấy, tôi đi đào rau má ở Bạch Ngọc cách nhà 15 cây số, được một gánh đầy nhóc, ra sông Lam chỗ đền Miệu nơi có cây búp quả linh thiêng xổ sạch bùn đất, cùng O Niêm con chú Trị gánh về.Tôi bỏ vào kho, ra lu tọc một gáo nước lã, rồi nhảy chân sáo xuống Đồng Lạc coi đấu địa chủ. Tôi dè dặt đi lại chuồng nhốt cha mẹ và chị tôi. Cha me và chị ngước nhìn tôi mừng rỡ. Tôi khoe với người là đào được một gánh rau má tươi non.”Ôi con tôi giỏi quá” – mẹ khen.
        Tôi mon men lại gần khu trung tâm đấu tố. Một tấm phông màu cháo lòng như cánh buồm no gió trên can quốc kỳ và ảnh bốn lãnh tụ hai Tây hai ta: Mã khắc Tư (Mác) - Tư Đại Lâm (Stalin) – Hồ Chí Minh – Mao Trạch Đông. Trên bàn chủ tịch đoàn kê cao hơn đầu người gồm có Chắt Hoan cốt cán là chánh án, ông Đội mặc y phục quân nhân bạc màu trong vai cố vấn, ả đĩ Thắm, hai gã trai cày không rõ tên chuyên cày thuê cuốc mướn, không biết chữ làm bồi thẩm đoàn. Người ta lôi ra trước vành móng ngựa ông Phan Tư Giản một địa chủ biết làm ăn nhất ở Hội Tâm. Một ả nông dân chân đất mặt như Thị Nở chạy choi choi lên, nắm chặt tay dúi lia lịa vào đầu kẻ thù của mình. Ả kể lể “Mày bắt tao làm lụng suốt ngày đêm không cho nghỉ ngơi, ăn thì toàn đồ thừa vợ chống mày thải ra. Ngày nọ mày đè sấn tao bên bụi khoai môn mày hiếp tao. Như thế này ! Thế này ! Cái thằng bạo dâm chết dẫm”.
        Ông Tư Giản ngẩng cao đầu hắt ra một câu “Cái thứ đĩ rạc ma chê quỷ hờn như mày nằm ngửa giữa đường chó nó cũng không thèm đ. chứ là tao”. “Đả đảo địa chủ ngoan cố” – tiếng hô đả đảo dậy trời từ một rừng cánh tay vung lên căm giận ngút trời… Đấu một chặp nữa, đến trưa, tội trạng bóc lột nông dân đến tận xương tủy đã phơi bày rõ ràng. Toà nhân danh công lý của nông dân tuyên ông Giản 15 năm, phạt 5 năm về tội ngoan cố không chịu khuất phục nông dân. Tổng cộng hình phạt lên đến 20 năm tù giam..
      * Buổi sáng ấy, chúng tôi đang ngồi học trong lớp nơi sơ tán nhà ông Cẩn thì nghe những phát súng trường chát chúa nổ rất đanh, gần lắm.Thầy Thạc Tân cho lớp nghỉ giải lao, chúng tôi chạy ùa ra phóng xuống cánh đồng xem bắn địa chủ. Đến nơi, thấy một xác người nằm còng queo dưới huyệt hai tay vẫn bị trói dật vào cây cột tre, máu sủi bọt từ những vết thương bị đạn phá ra to bằng cái dĩa. Một du kích dùng kiếm chặt đứt những nuôộc trói, kéo tóc bật ngửa mặt người chết lên.
      Trời, thì ra là Thái Doãn Thi – bác họ của tôi. Một người nông dân hiền lành cơ chỉ biết cách làm ăn, ông chết vì tội gì vậy ? Mãi sao này tôi mới biết “tội” của ông là: năm 1953, chính trị viên tiểu đoàn Thái Doãn Mậu chỉ huy đánh chùa Non Nước Ninh Bình. Trên đường khải hoàn đi qua cánh đồng Pháp câu moócchiê ông bị trúng đạn tử thương tại chỗ. Thương em trai, ông Thi len lỏi từ vùng tự do khu Bốn vào vùng địch hậu tìm hài cốt của em. Cuộc đi không thành. Đến Cải cách ông Thi bị khép vào tội tử “nhảy vào vùng tề ngụy, cấu kết với bọn công giáo Phát Diệm chống phá cách mạng”.
          Trước đó, trong giảm tô ông anh Cả của ông Thi là Thái Doãn Yết cũng bị bắn đợt đầu. Ông Yết là người sáng lập ra chi bộ Đảng đầu tiên của xã Yên Hòa (thời đó gồm 3 xã Thịnh Sơn, Hòa Sơn và Bài Sơn), huyện Anh Sơn (nay là huyện Đô Lương), và nhận lãnh chức vụ bí thư. Theo chỉ thị của bí thư đảng Vầng Hồng nhà doanh nghiệp đồ gỗ là ông Cửu Thiện, Thái Doãn Yết được biệt phái sang hoạt động hai mang bên địch với vai bang tá.
         Lịch sử Đảng bộ xã Thịnh Sơn viết “Khiếp nhược trước uy vũ của thực dân Pháp, Thái Doãn Yết đầu hàng giặc làm tay sai cho chúng chống phá lại cách mạng”. Đến Giảm Tô, ông lãnh án tử hình vì tội “phản bội” đó. Rất tiếc nhân chứng sống duy nhất là bí thư Cửu Thiện bị xử lý trước đó. Một nhà ba anh em tham gia cộng sản, ba đảng viên, cả ba đều chết vì tay cộng sản. Cho đến nay Đảng bộ xã Thịnh Sơn vẫn ngủ yên trên sai lầm tai quái này !
        * Sáng nay anh em chúng tôi lại vào rừng như thường lệ. Hôm nay có cha đi theo để kiếm cái mỏ cối đạp mà cả tháng nay ông lục cục đục đẽo chưa xong. 5 giờ sáng. Đêm còn tối bưng. Chúng tôi quen rồi với cảnh âm phủ suốt hơn năm sống nhờ rừng, nên bước đi vững chãi. Cha tôi không quen bóng tối chân nam đá chân chiêu trông đến tội. Đường theo lối sỏi thân quen lượn lờ quanh đồi núi. Được nắng hương cỏ mật hai bên vệ đường dâng lên ngào ngạt, đầy cả hai buồng phổi. Khí rời mát mẻ, se se gió lạnh. Xa xa, đôi chim từ quy khắc khoải gọi tàn canh. Phương Đông màu trắng ửng dần sang hồng. Bọn tiều phu chúng tôi đi trong bình minh rực lửa và râm ran tiếng gà.
         Đây là làng Yên Bài, nối tiếp dãy lèn Yên Mỹ với Mỏ Diều hùng vĩ, vượt qua quãng đồng Tiên Cảnh có ngôi mả ông ăn mày to như trái núi con bởi ông ta chết vào giờ thiêng, đây rồi Khe Nước Nhỉ – nơi chúng tôi thường nghỉ ăn trưa, uống nước, tiếp đến làng Hậu Trạch lơ thơ dăm mái lá hiền hoà. Đi một đỗi ruộng bậc thang nữa thì đến bìa rừng. Cha theo kịp nhưng khá vất vả, thở dốc ra khó nhọc. Kia rồi, một súc gỗ dẻ nằm lẫn trong đám lá dẻ khô queo. Anh Hảo gạt mấy cành nhánh, lộ ra gốc cây ngon lành. Anh Hảo nói “Cha chặt cây này khoảng độ 1m 2, rồi ra điếm canh nghỉ ngơi ăn cơm, xong vác về trước. Các con còn đi sâu vào rừng mới chặt được củi” . Nói rồi, anh em chúng tôi xăm xăm đi. Rừng bỗng trở nên yên ắng tịch mịch. Có tiếng gọi với theo “Các con ơi, sao nỡ bỏ cha giữa rừng già thế này”. Tôi chạy quay trở lại. Ông sợ run bắn lên. Tôi trấn an ông “rừng ở đây hiền hòa không có thú dữ đâu cha”. Ông hơi yên dạ vung rựa lên đẵn vào cây thiết mộc.Tiếng cum cum vọng lên từ thung lũng như khắc vào hồn tôi như chạm vào hồn rừng từng nhát từng nhát khắc khoải nhói đau. Tiếng cum cum yếu dần, thưa dần rồi im bặt. Tôi đâm hoảng sợ có gì bất trắc, định chạy ra thì anh Hảo xua tay “không việc gì đâu, lo làm khẩn trương lên tránh cơn giông kia kìa”. Đến trưa mặt trời lấp lửng trên đỉnh rừng anh em gánh củi ra thì thấy khúc gỗ dẻ đã đem đi rồi, tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Tháng trước, dượng Thung cũng vào rừng này chặt gỗ dẻ về làm cối xay, bị cây thoi từ trên xuống gãy đầu gối, máu xối lênh láng, không ai cứu kịp đã tử vong. Rừng Hậu Trạch là ân nhân của chúng tôi, cứu cả vài chục gia đình địa chủ thoát chết đói, vốn bà con họ hàng dây rau rễ má liên kết đùm bọc lại cùng nhau để sống.
       Rừng cho chúng tôi củi, lá dong, hạt muồng, củ nâu, hạt dẻ, lá lốt, lá trầu rừng, chạc chìu, cánh kiến, sa nhân, mật ong, thú rừng… mùa nào thức ấy, bất cứ cái gì cũng đổi được ra gạo, khoai, ngô. Con cháu địa chủ đông đến mấy trăm người, cứ bảnh mắt là lùa vào rừng, gánh củi luôn ra chợ Tràng, chợ Lường, chợ Xóm Giếng bán, mua thực phẩm, tối mịt mới về nhà, đi không ai thấy về không thấy ai. Rừng Hậu Trạch là thế giới riêng là công quốc tự do không có hung thần Đội Cải cách của những người bị nạn. 12 tuổi, tôi đã sống hòa vào người thân cảnh đời của Thạch Sanh hàng năm trời “Rong rêu mọc, nước suối tuôn – Đỡ lòng ngồi ngắm giang sơn chuyển vần”. Các bạn tiều phu bất đắc dĩ của tôi ơi, sau này dẫu đi bốn phương trời: Mỹ, Anh, Pháp, Canađa, Úc…các bạn còn nhớ chiến khu nơi cưu mang nuôi sống chúng ta không những năm tháng gieo neo vận hạn kiếp người ? Còn tôi, tôi luôn đau đáu nhớ về những cánh rừng Hậu Trạch, hễ nhắc đến là chực trào nước mắt.
          * Cha tôi có người chú út là ông Thái Doãn Châu. Ông Châu làm nghề dạy học kiêm thầy lang thuốc Bắc. Ông giáo Châu người quắc thước có ánh mắt nhìn dữ, tiếng nói oang oanh quát tháo như lệnh vỡ. Chỉ có mẹ tôi là chế ngự được ông. Ngày giỗ Cố cụ Tuần, ông bao giờ cũng đến muộn, ngồi độc một mâm trên cao chửi mắng con cháu hết điều khi rượu vô. Cải cách đến ông lâm vào cảnh đói, bốc thuốc không có khách. Ông thường ngồi thừ một xó vuốt bộ râu rậm rì, nghĩ ngợi kế sinh nhai. Quẫn quá, một lần dân làng thấy ông đang ngồi xóc chiếc điếu cày sau cái giếng đất cuối làng. Người ta báo với đội Cải Cách. Đội sai dân quân du kích gô cổ ông. Tội danh đánh thuốc độc vào giếng đầu độc dân làng, buộc ông lãnh 20 năm tù. Tưởng vào tù có cơm ăn, ai ngờ chỉ sau hai tháng ông bỏ mình trong trại tù Bến Hới. Ông để lại cho cha tôi tủ sách thuốc hàng trăm quyển. Cảm thương cái chết oan uổng của chú ruột, lại không có việc gì làm, ông cắn răng bấm bụng đói meo đọc sách thuốc quyết nối nghiệp thay chú cứu nhân độ thế. Thoạt đầu ông chữa những bệnh đơn giản cho những người thân trong nhà. Thấy được, ông dấn lên đọc tài liệu, luyện nghề cho tinh thông. Tiếng lành đồn xa, người ta tìm đến ông như tìm đến một cứu nhân. Ông nổi tiếng thầy lang mát tay, giỏi nhất là chữa bệnh nhi khoa và phụ khoa. Ông bắt mạch kê toa không lấy tiền. Thương ông, bà con đem biếu thầy mớ khoai, củ sắn, bò gạo để ông giáo đắp đổi qua ngày. Sau này, khi đã có thương hiệu, ông vẫn chứng nào tật ấy, không lấy tiền của bà con, hoặc nếu có lấy thì lấy chút ít cho có lễ để ông bà đủ sống và bù trì cho người nghèo hơn. Một lần tôi thấy một bệnh nhân nam rách rưới, da mặt ưởi, bủng beo đến xin ông chạy chữa. Cha tôi khám kỹ, rồi cho đơn. Ông viết bằng chữ Hán đẹp như vẽ. Cầm đơn thuốc trong tay, người bệnh tần ngần. Hiểu ý, ông mở túi cho hai hào tiền thuốc. Bệnh nhân cảm ơn rối rít. Ra về đến ngoài ngõ, ông gọi giật lại, nói “bà ơi cho cháu này xin 2 bò gạo”. ông bảo tôi “Uống thuốc mà không có gì ăn thì làm sao khỏi bệnh”. Tôi đã vỡ nhẽ ra tất cả.
         Trong nhà cha tôi chỉ tôn thờ một câu châm ngôn của Danh sư Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác “Nhân nghiã trân tàng bất hoán phương” [Cái nhân nghĩa là của quý giá nhất phải biết bảo tồn không bao giờ thay phương đổi hướng]. Trong ngôi nhà tranh vách đất chỉ có câu kim chỉ nam ấy là sáng rực lên một vùng bởi nét chữ bay bướm như rồng múa phượng chầu. Sau ngày ông mất, tôi giữ gìn bức châm ấy như giữ linh hồn của ngôi nhà, dù tôi ở quê hay ở nhà riêng Sài Gòn. Tôi thích nó và quyết tâm sống theo lễ nghĩa đó.
          Bức họa châm “nhân nghĩa trân tàng..” hiện treo tại thư viện Thái Doãn Hiểu Cha tôi là người hiếu học. Sự hiếu học xuất phát từ tinh thần trách nhiệm với người bệnh. Ông học theo lối kiến văn là chính cộng với rút kinh nghiệm từ các ca bệnh nhưng không quên chính danh về mặt bằng cấp. Ông đi thi để lấy bằng sơ cấp ở huyện, thi lấy bằng trung cấp ở tỉnh hội Đông y. 70 tuổi ông còn lóc cóc ra tận Hà Nội đến TW Hội Đông y thi lấy bằng Bác sĩ đông y (đại phu). Việc này diễn ra đúng 10 năm !
          * Tôi đi làm thầy giáo vào năm 1960. Chính thức đứng trên bục giảng năm chưa đến 17 tuổi. Cha tôi lo lắm “Không biết nó làm ăn ra sao. Dù gì thì nó vẫn còn là đứa trẻ” – Cha tôi nói với mẹ – “đêm ngủ phải có cha, không rời nửa bước”. Nói rồi, ông đi lên trường cấp 2 Cao Sơn, Anh Sơn nhiệm sở của tôi. Ông lân la hỏi mấy vị đồng nghiệp đồng môn về sự dạy dỗ của tôi. Anh Bính thưa: “Bác đừng lo, tuy trẻ người nhưng anh ấy già tay nghề lắm. Học trò ở đây lống con, có em đã từng đi bộ đội tham gia chiến dịch Tây Bắc, giải phóng Điện Biên về học. Họ lớn hơn thầy giáo cả chục tuổi nhưng vẫn thấp hơn thầy giáo cái đầu. Họ dày dạn bom đạn nhưng lại nơm nớp sợ thầy Hiểu nổi trống truy bài”. Ông xin thầy hiệu trưởng dự giờ dạy của tôi rồi mới yên tâm quay về nhà. Hai năm sau, tôi thuyên chuyển lên Dừa, trường cấp 2 Hùng Sơn, cha tôi nhớ con lại lên thăm. Đường xa 38 km, ông thường cuốc bộ, ít khi mua được vé xe khách quốc doanh. Có lần ông lên và tôi về. Hai cha con gặp nhau ở lèn Kim Nhan. Dáng ông phăm phăm sải dài trên con đường vắng, nắng chiều dát vàng lên đỉnh núi Kim Nhan rực rỡ. Hai cha con ngồi nghỉ dưới khoảng rừng thưa, bạch đàn lao rao nắng, tiếng chim cu gù đầm ấm gần xa, sông Lam như một giải lụa mềm mại vắt qua núi non xanh biếc.
         Sau này, 1976 vợ chồng chúng tôi chuyển cư từ Hải Phòng vào Sài Gòn định cư, dạy trường Cao đẳng Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, ông lại vào thăm. Bữa đó, tôi giảng bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến cho 12 lớp văn khóa 2 trên giảng đường lớn. Không hiểu làm sao ông biết được và xin dự giờ. Anh Hoàng Xuân Tâm đành phải tháp tùng hướng dẫn ông. Tôi thì trổ hết tài nghệ để chứng minh tính ưu việt của học thuật phái đỏ, và để cha tôi biết sự trưởng thành của tôi. Dạy xong, về văn phòng ông nói ngay “Cũng được, nhưng vẫn khai thác chưa hết ý. Bức tranh tâm cảnh thì phải đánh từ trong ra chứ không phải ngoài vào”. Tôi tiếp thu và về sau hoàn chỉnh nội dung và nghệ thuật bài giảng tốt hơn.
         * Vào thập niên 70 của thế kỷ trước, Mỹ dùng không quân leo thang đánh ra cả nước. Cả nước dốc người đi đánh Mỹ. Nông thôn miền Bắc rỗng người, chỉ có một sư đoàn bảo vệ , còn lại người già trẻ em, phụ nữ tay cày tay súng đảm việc nhà, nuôi con chờ chồng đến ngày chiến thắng. Không một làng quê nào yên bình được với bom đạn. Làng tôi nằm trên trục giao thông đường 7. Ngày, triền miên không lúc nào chúng ngớt đánh phá. Đêm, pháo sáng từng đợt từng đợt đốt lựng, lũ ó lùng sục săn ô tô. Làng tôi bị đánh không biết bao bận, nhưng kỳ lạ không ai nỡ rời làng. Ai cũng bám chặt lấy làng như một lẽ sống. Lần bị bom chụp nặng nhất là năm 1973 cả làng bị tan hoang nát bấy, người chết, gia súc chết ngổn ngang, mọi người mới chịu dời làng lên núi.
       Quê mới có gì ? Có núi và rừng. Rừng núi cho cha tôi cả một kho dược liệu quý không phải mua. Nguồn thuốc Bắc từ Trung Quốc sang bị giao thông chặn tứ phía. Sau này, chiến tranh biên giới Trung Việt xẩy ra 1979, nguồn thuốc bị cắt hẳn cha tôi cũng không hề lúng túng. Tuệ Tĩnh theo lệnh vua Lê Thái Tổ đi cống Minh rồi bỏ lại thân xác ở quê người, nhưng vị Thánh Y này đã để lại cho cha tôi một bửu bối “Người Nam dùng thuốc Nam”. Cha tôi đã triệt để khai thác nguyên lý chữa bệnh này và đã thành công. Trong dược điển của cha tôi có hàng trăm dược liệu quý giá. Ông có thể chữa được hàng chục thứ bệnh nan y mà Tây y bó tay. Cha tôi huy động bà con vào núi hái thuốc đem về phơi đầy sân đầy vườn trạm y xá xã. Bà con chữa bệnh không tốn bao lăm tiền
        Những năm chiến tranh gian nan đó, gia đình tôi chia xẻ ra ly tán mỗi người một phương. Anh Hợi ở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hòa Bình. Anh Sửu làm việc ở phòng phổ thông Ty Giáo dục Phú Thọ. Anh Hảo dạy học ở Thanh Hóa đầu quân đi Thanh niên Xung phong chống Mỹ, cứu nước tổng đôi TNXP Thanh Hóa. Tôi – Thái Doãn Hiểu gia nhậpTNXP Nghệ An. Chị Thanh làm Thư ký Công đoàn Nông trường Quân đội 1-5 Nghĩa Đàn. Út Tâm đi dân công tải đạn chứa vào hang động Phong Nha Quảng Bình. Chúng tôi toàn sống ở những trọng điểm đánh phá quyết liệt của máy bay Mỹ : Cầu Hàm Rồng, Cầu Cấm, Truông Bồn…, suýt chết không biết bao lần. Cha mẹ tôi sống ở hậu phương, ngày nào cũng cầu nguyện cho các con đi chân cứng đá mềm. Mẹ còn phải giữ đám trẻ để phụ thêm công điểm hợp tác xã kiếm thêm chục cân thóc mỗi tháng phụ vào đồng lương ít ỏi của cha 30 đ/ tháng.. Già rồi mà các cụ cơm không được no, khoai ngô sắn độn cơm. Cả nước sống như thế cả.
       * Năm 1973. Lần ấy tôi từ Dừa ghé thăm nhà. Hai cha con chuyện trò đến tận khuya. 12 h hơn, bỗng có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở. Một bộ mặt gớm giếc thò vào : cu Minh ở sau nhà. Tên sát nhân đã từng đeo mặt nạ bắn bác Thái Doãn Yết đây mà. - Có việc gì khuya khoắt thế này. - Thưa ông, ông cứu con con với. Đã mấy ngày nay nó bí đái không tiểu được. Con đã làm đủ mọi cách. Tôi đưa mắt nhìn cha tôi dò hỏi. Ông ngồi bật dậy với túi đồ nghề khoác vào tay: - Nào ta đi. Đề phòng bất trắc tôi vớ chiếc đèn pin soi đường đi theo hộ tống người. Đến nơi, một thằng bé mặt xanh nanh vàng nằm thở khò khè trên chiếc chõng tre. Cha tôi vạch áo khám cho nó, nấn khắp bụng, đến dương vật. Một hồi lâu ông hỏi cu Minh: - Nhà có bồ kết không ? - Dạ có nhiều ạ. - Lấy ba quả nướng lên hòa với nước sôi để nguôi cho uống cách nhau 2 tiếng một lần. Ba lần thì khỏi bệnh. Xong rồi ! Ông khoát tay tôi ra về. Sáng hôm sau, cu Minh sang nhà quỳ mọp xuống trước mặt ông Phật sống lạy như tế sao: - Ông ơi, sao ông nhân từ thế. Một đời con chỉ làm ác cho ông và gia đình ông. Sao ông lại cứu chúng con ? Cha tôi điềm đạm vuốt râu: - Cứu người là việc của thầy thuốc. Giết người là nghề của đồ tể, là lý tưởng người ta dạy anh. Nếu anh thấy đúng thì cứ giết. còn nhược bằng anh thấy giết người là tội ác dã man thì thôi ngay. Anh nên nhớ nhà Phật dạy: Ác giả ác báo. Gieo gì gặt nấy. Cu Minh ửng đỏ mặt như đã thấm. Vẫn trong tư thế quỳ : - Con cảm tạ ông đã cứu con con và cứu vớt linh hồn con. Amen !
      * Bạn đọc. Bạn sẽ hỏi Thái Doãn Hiểu viết văn đã thành danh, có chịu ảnh hưởng gì ở cha mẹ của mình không ? Ảnh hưởng nhiều lắm chứ. Trên tạp chí Sông Hương cách đây vài chục năm tôi đã trả lời phóng viên Dương Quang Minh -Vụ phó vụ Thông tấn báo chí Văn phòng chính phủ rằng: “Còn một lý do rất đỗi quan trọng nữa tôi viết sách là để trả nghĩa cho hương hồn Phụ Mậu tôi. Cha tôi là một nhà nho thanh bạch, đi dạy người và làm thầy thuốc đông y cứu nhân độ thế. Cha mẹ tôi không để lại cho tôi một cây chỉ nào cả, nhưng người đã để lại cho tôi một tài sản tinh thần vô giá. Cha tôi sống rất hiền đức, là đồ đệ của Lão Tử, Thích Ca, ông chủ trương không chống lại đều ác bằng bạo lực. Cha tôi là một nhà giáo mô phạm từ chữ viết, lời nói, quần áo, tư tưởng, tác phong, một thầy thuốc có y đức lớn xứng đáng là đồ đệ của Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tĩnh. Còn mẹ tôi – người là biểu trưng cho người phụ nữ Việt Nam hay lam hay làm, hệt như bà Nguyễn Khuyến. Mẹ làm lụng quần quật từ bảnh mắt cho đến tận khuya, quần áo lúc nào cũng ướt sũng mồ hôi.
      Tôi thừa hưởng những nết tốt đó. Có thể nói: tôi viết sách dưới ánh sáng đức nhân của cha, miệt mài thức khuya dậy sớm bằng cái cần mẫn của mẹ. Không thừa nhận có ngày chủ nhật và ngày lễ, tôi làm việc đều đặn không dưới 14 tiếng mỗi ngày, chỉ nghỉ ngơi bằng cách thay đổi hình thức công việc. Tôi viết với tất cả nỗi đam mê vốn có, và cả sự cưỡng bức lao động chính mình”.
      Lần nọ, 1987 từ Sài Gòn về thăm nhà, cha tôi bảo “Cha yếu lắm. Nghỉ hưu, chẳng có việc gì làm, lại không có lương hưu. Ăn rồi lại ngủ, chẳng biết đi đâu, chơi với ai nơi khỉ ho cò gáy này. Thôi để cha về với ông bà Tổ tiên. Đa thọ đa nhục”. Tôi động viên ông , “cha thường làm thơ Thọ trường trăm tuổi danh thơm sẽ về. Danh của cha đã thơm rồi, nhưng cây cao bóng cả vẫn là nơi các con được nương nhờ”. Tôi lại hỏi cha “Nếu phải từ biệt thế giới đầy khổ nạn này, cha thương tiếc nhất cái gì ? “Không tiếc gì cả, những thứ cha mong đã có hết, cha chỉ thương 7 đứa con yêu quý của cha. Chị Cả Thiệu đẹp người tốt nết, hiền hậu. Chị Thanh đảm đang chạy chợ ngược xuôi cứu cả gia đình khỏi chết đói qua ba cơn hiểm họa. Hy sinh lớn, vì thế, chị con đâm ra công thần thao túng mọi việc trong nhà. Thật tội nghiệp và bất hạnh sống không chồng con. Anh Hợi có cái chín chắn đức độ của một người từng trải trận mạc và nhân tình thế thái. Anh sẽ là người con trai duy nhất ở bên cạnh cha cho đến phút cha lâm chung. Anh Sửu hào hoa phong nhã, nói năng lợi khẩu bặt thiệp, ước gì được nấy, muốn là ông Đốc khi ba tuổi về sau làm Đốc học suốt đời. Anh sống hơi vị kỷ, thời trẻ có ý oán hận đã trót thác sinh vào gia đình ta làm cản đường tiến chính trị của mình. Anh Hảo kiến văn hạn hẹp, nhìn đời, nhìn người, nhìn sự việc rối. Hay nói, nói nhiều, nên lầm lẫn; được cái tính tình vui vẻ, ruột để ngoài da, hay trạng, luôn giữ trong mình một đứa trẻ con cho đến già. Còn con – Thái Doãn Hiểu tài hoa, chịu học, sống vị tha, con sẽ làm nên nghiệp văn lớn, hậu vận con cháu tốt tươi. Cha kỳ vọng ở con. Có điều cầm bút phải lo là tai nạn nghề nghiệp “Thủ thân vi đại” [giữ mình là việc lớn]. Con thấy đó, trên tấm hoành phi đặt ở nhà thờ, Tổ tiên ta chỉ để lại ba chữ “Di dĩ an” [lấy cái bình yên để lại cho con cháu]. Còn út Tâm, đứa con út da trắng tóc vàng cùng chồng là thuyền trưởng viễn dương Vương Đình Đỉnh lúc nào cũng chỉ lo đói nên tằn tiện tích cốc phòng cơ đến là… khu đỉn. Giàu có nhưng lệ thuộc đồng tiền, làm cho chất lượng cuộc sống thấp. Được cái em nó biết căn cơ từ lúc 5 – 7 tuổi, cái đận cả nhà vào rừng, ở nhà một mình Tâm biết hái rau tập tàng, kiếm cái mẻ bác nấu canh muối cho cả nhà ăn”. Trong 7 anh chị em, mỗi đứa mỗi nết, chỉ có anh Hợi và Hiểu là hiếu đễ bậc nhất, không bao giờ sao nhãng việc nuôi thân dưỡng tâm cho cha mẹ. Cha cảm ơn các con. Cha biết ơn các con, cả 4 con trai đều phát huy truyền thống võ công và văn trị của dòng họ Mạc nhà ta, nối nghiệp nho gia của cha – cái nghề dạy người thật thanh bạch, nghèo chút nhưng sống ra con người”. Nói đến đây ông rung rung chòm râu, rơm rớm nước mắt. “Còn mẹ thì sao cha ?” “Không có mẹ thì cái nhà này không thành. Mẹ là nội tướng quán xuyến trong ngoài, bếp núc đỏ lửa, mâm cỗ cúng tế Gia tiên tươm tất, đối nhân xử thế với họ hàng nhân hậu lịch lãm, người hy sinh tất cả để tái tạo, dẫn dắt tương lai. Cha con ta chịu ơn mẹ nhiều lắm”.
        “ – Thế cha có oán trách ai không cha ?” Ông lặng đi một lát rồi cất tiếng – “Ngồi buồn mà trách ông Xanh – Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Trách ai được con. Thực ra thì họ cũng là nạn nhân. Nạn nhân của sự ngu dốt, tham lam và đố kỵ. “Nhân chi sơ tính bản thiện” – thầy Mạnh Tử bảo thế, nhưng Tuân Tử ngoặc lại “Nhân chi sơ tính bản ác”. Cái xứ mình nó thế. Không có gì nhân đức bằng con người nhưng cũng không có gì tàn ác bằng con người. Thôi thì, có thân có khổ, có khổ mới nên thân.
         “Cha có nhận xét gì về những cuộc cách mạng long trời lở đất tràn qua quê ta và giày xéo lên cuộc đời của cha ?” “- Cách mạng !? nó không đem lại mục đích gì cao quý ngoài sự đổ vỡ và chết chóc. Cuộc cách mạng mà con gọi là long trời lở đất đó đã giáng một đòn chí tử vào xương sống đạo lý, tín nghĩa dân tộc được thiết lập xây đắp hàng nghìn năm, nó tiêu diệt những đầu óc biết làm ăn và quản lý kinh tế ở nông thôn và thành thị, nó triệt hết trí thức hiền tài nguyên khí của quốc gia. Không hiểu làm sao người ta lại dại dột chọc tay vào mắt mình” “ – Cách mạng là phản cách mạng – ông Mabớp triết gia Pháp đã nhận xét về những cuộc cách mạng tư sản như vậy đấy”.
        Sang năm sau, 5-12-1988 cha tôi đi thật. Ông bị tiêu chảy, không chữa, hai ngày thì mất. Bà con họ hàng quyến thuộc, những bệnh nhân khắp huyện nghe tin thương tiếc một người hiền. Họ đến đưa tang đông chật cả thung lũng Cây Chanh để vĩnh biệt vị bồ tát ân nhân cứu khổ cứu mạng của mình. Ngày cha mất, tôi không về chịu tang được vì không có một đồng tiền nào cả. Khốn nạn thân tôi với cái nghề cao quý chết đói. Việc này cha tôi đã dặn rồi “Cha chết thì đừng về, đã có họ hàng bà con ngoài này lo. Về thì mang công mắc nợ khốn thân con”.
       Tôi cùng út Quỳnh nằm khóc cha suốt ba ngày ba đêm, mắt sưng húp không nhìn thấy gì cả. Sinh 1904. 11 tuổi (1915) mồ côi cha, cùng người mẹ trẻ nuôi nấng và dẫn dắt một bầy em lít nhít 4 đứa. 15 tuổi (1919) thay cha chăm sóc ông nội ốm liệt giường. 22 tuổi (1926) – (1945) làm giáo sư Hương trường. 24 tuổi (1928) bất bình với Pháp, tham gia hoạt động cách mạng. 26 tuổi (1930) vào tù bởi vụ Xô viết Nghệ Tĩnh. 27 tuổi (1931) gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. 41 tuổi (1945) tham gia cướp chính quyền ở địa phương, làm Chủ tịch làng Kim Liên. 42 tuổi (1946-1948) Trưởng ban Bình dân học vụ xã. 49 tuổi (1953) mắc phải vạ vu khống làm Bộ trưởng Giáo dục. 51 tuổi bị quy là địa chủ. 56 tuổi (1960- 1987) làm Bác sĩ Đông y trực trạm xá xã Thịnh Sơn. Năm 85 tuổi (1988) giã từ cõi thế.
       Con Rồng đất đã giáng mang người đi rồi ! Thái Trung Tiên! ông Tiên giữa đời đẹp lão, vị trích tiên đạo cốt đã về Trời thật rồi ! Adi đà Phật !
      Một buổi sáng vào năm 2009, khi còn ở trên nhà viết Hương Viên Các, Gò Vấp, tôi thức dậy thì liền thấy cha tôi ngồi cạnh bên, âu yếm nhìn tôi như hồi còn tấm bé, như hồi cha con tôi háo hức thức đón giao thừa bên mâm cỗ Tết cúng Gia tiên. Tôi thảng thốt kêu lên “Cha ơi cha ! Con đây!”. Tôi đưa tay ôm chầm lấy người. Ông biến mất. Thì ra hình tôi chiếu vào trong tấm gương soi trên cánh cửa tủ đặt cạnh giường. Buồn. Bâng khuâng suốt cả một ngày trời…
        Bao nhiêu ảnh hình thân thuộc theo ký ức lại hiện về. Này đây, cha đang đi chân nâng – ồ không người đang đi trên mặt nước sông đào xanh trong như đi trên đất đầy khói sương; này đây cha đang rung đùi và cười vang khi một sáng tìm được tứ thơ “Thanh nhàn vui vẻ là người thần tiên”; này đây, cha tỉ mẩn gắn kết từng cái bát yêu sứ vỡ bằng xi măng để có cái ăn đồ đựng cho cả nhà; này đây, cha đang phá vườn để trồng toàn thuốc nam chữa bệnh cho dân; này đây cha an ủi và dặn dò bệnh nhân bằng vẻ mặt ân cần từ tâm, tôi cứ ngỡ như Hải Thượng tái thế; này đây cha con ta đang trò chuyện y đức y thuật, chuyện trước tác của tôi trong hầm rồi ngủ quên lúc nào không hay, cứ đinh ninh có bốn bao thuốc nam sơ chế che chắn bom đạn an toàn cho cha con mình tròn giấc; đây nữa cha cùng mẹ đứng trước một vườn cải rực rỡ hoa vàng rù rì đàn ong đến hút mật; và đây cha râu tóc bạc phơ quây quần giữa con cháu đến mừng tuổi thọ… Cha ơi, con xót xa và tự hào về cha ! Cha đã vượt qua những chặng đường khổ ải với nhiều ân oán của bọn lang băm chính trị đểu cáng để trở thành vị Phật sống luôn hiện hữu giữa đời.
 [Trích chương 17 ÂM VANG CỦA TIỀM THỨC, hồi ký của Thái Doãn Hiểu, chưa in]

26 thg 7, 2013

Quê cũ, Quán nhậu và sách

Quê cũ, quán nhậu và sách 

May 12, 2012 By Guest 8 Comments Blog của bạn Vũ T Khanh ngày thứ bảy 12/05/2012

 Liệu 5% còn lại có thắng nỗi không? mà thắng để làm gì? Nhưng rồi con chợt hiểu, trong lịch sử, có hàng triệu trường hợp 1 người có thể thay đổi hàng triệu triệu người, xoay chuyển cả đại cục, thay đổi 1 phần thời đại, chí ít cũng là tác nhân cuả sự biến chuyển thời đại.. 1 ngày nọ, sau năm ,sáu năm xa nhà lên thành thị làm và học, Con về thăm nhà, gặp bạn cũ, gặp quê cũ, gặp những cô, cậu bé của tương lai…
 QUÊ CŨ, CÀ PHÊ, QUÁN NHẬU VÀ SÁCH

 Điều đầu tiên thay đổi rõ rệt là quán nhậu nhiều gần bằng nhà dân, có thể hơi phóng đại nhưng mà cứ vài trăm mét là có quán to, quán cóc, quán sang, quán bình dân. San sát, nhiều lắm Bác ơi. Tiếp đó là quán cà phê, mà hình như là không thua kém lắm với quán nhậu. Cả hai nơi này đều có chức năng giết thời gian, giết sáng tạo và tư duy. Nhưng kẹt nỗi hai nơi này đông lắm, lúc nào cũng kẻ ra người vào như trẩy hội, lớp lớp gương mặt ngầu ngầu, ngà ngà, bềnh bệch ngồi la ngồi liệt… Con tìm lại thư viện năm xưa, cái thời con không biết đâu là quán nhậu, không biết lắm khái niệm ngồi quán cà phê, cái thời sách vở là món quà linh thiên, nơi đó có cái thư viện nho nhỏ, với ánh đèn vàng vàng, với những đầu sách già cỗi và úa vàng, với người thủ thư không lấy gì yêu sách cho lắm. Con ngấu nghiến đọc, trò chuyện cùng tác giả, hình dung về thế giới bên ngoài, tưởng tượng về những cộng sự. Nhưng hiện tại cái thư viện đó cũng dẹp luôn rồi. Thư viện là của phòng văn hóa huyện mở ra và quản lý, Con hỏi bạn con, sao không thấy cái nhà sách hay siêu thị sách nào vậy? Nó chỉ mấy cái siêu thị mini về đồ điện tử và điện máy. Con tìm tới nơi con hay thuê truyện tranh và sách báo để đọc, đó là 1 căn nhà nhỏ chừng vài mét vuông, do 1 bà chủ hình như là thất học, nhưng bả có biệt tài là nhớ tất cả đầu sách và đọc hầu hết các loại sách cho thuê. Mà hình như bà là tụ điểm duy nhất để cho thuê sách báo ở cái thị trấn nhỏ bé ây..Bấy giờ ghé lại , bà vẫn như xưa, mấy đứa nhỏ đông nghẹt
NHỮNG TƯƠNG LAI

 Con ngồi với bạn cà phê lúc 3 giờ chiều. Từ trong quán nhìn ra, con thấy như phim Hồng Kông, từ xa xa, 5,6 tóc vàng tóc đỏ, chừng 13,15. Có cả mấy công chúa trong đám ấy, cả bọn đi liêu xiêu như bóng ma, xuất hiện như những cao bồi, áo phanh ngực, quần nhàu nát, chân không dép hiên ngang bước vào quán. Mấy cô bé phục vụ toe tét chạy ra, còn ý ới chưởi thề nhau để xem ai ra phục vụ khách. Các thượng đế bàn nhau sẽ cà phê cho tỉnh táo rồi đi nhậu tiếp. Bên tai con, thằng bé bán vé số chừng 5,6 tuổi mời chào với cái chân không dép và bộ đồ xỉn màu, bạn con lắc đầu, vậy là nó đứng đó tuôn ra những từ ngữ chỉ có trong phim người lớn, về quan hệ tình dục, về chém giết đủ loại. Vài phút sau, có 2 thằng bé khác, chừng 4, 5 tuổi ... bước vào. Bạn con bảo thằng bé mới vào kêu thằng bé đang đứng đi đi. Vậy là 2 thằng nhóc chu mỏ phun nước bọt vào nhau và chạy ầm ầm khắp quán ... Tối con đi đá bóng cùng bạn cũ, bạn con dạy trong trường đại học, đội bóng đối phương là học trò của bạn con. Tụi nó sức trẻ đá hăng quá, chơi tốt, con thấy vui ghê. Kết thúc trận bóng, tụi nhỏ rủ nhau đi nhậu, không say không về, 1 em hỏi mầy biết hôm nay thứ mấy hông, em khác đáp hôm nay thứ 4 chứ không phải thứ 7, ừ được, nhậu tới thứ 7 thì nghỉ… BẠN CŨ Bạn thân con là người có tài, thông minh, cờ tướng không ai địch nỗi, kể cả các vị cao tuổi cũng phải phục, kẹt nỗi bạn con mới đi làm được 2 năm, nhưng làm bên bộ phận sản xuất ở 1 nhà máy địa phương, bạn bảo chán đời quá, không muốn bon chen, chỉ muốn vê quê mần vườn mần ruộng, mần kinh tế vườn, làm nông trại. Bạn xin được 1 chân làm trong nhà nước, hình như chân kế toán, mà bạn lại học công nghệ thực phẩm, hỏi bạn sao làm được, bạn bảo cả tháng thu chi chừng 5,6 triệu, ai làm chả được, mà bạn được cấp cả bàn riêng, máy tính riêng, nghe nói lương bạn tính theo bậc đại học, mà bạn học dân lập thì phải. Chiều chiều, bạn tà tà đánh cờ, điện thoại không dùng tới, bạn bảo giờ làm ở quê rồi nên không cần dùng tới điện thoại.. Con có vài dự án và hoài bão, nhưng thuyết phục hoài bạn bảo sợ phải bon chen lắm. Nhưng theo con biết nhiều năm học đại học, bạn chỉ có say xỉn, ngủ và cá độ,. 2 năm đi làm, bạn về quê, sợ phải bon chen... Một bạn khác, xin được chân vào một hãng viễn thông lớn, vậy là từ đó, bạn không bao giờ nhìn và chơi với bạn cũ, bạn đồng cấp, bạn chỉ chơi với những đồng nghiệp và cấp trên, mà hình như hãng này cũng thuộc quản lý của…
 Con người xa quê, sống ở thành phố năng động nhất nước, nhưng vẫn mong mỏi quê nhà, mong mỏi phát triển thế mạnh quê hương, ngày ngày tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại quê nhà, ngày ngày đau đáu với những vấn đề thời đại, con không biết là hình như con lo không đúng chỗ, bởi có lẽ con không có thân thế chăng, nên con đành nằm trong số 5% những người khờ dại...

Dân nghèo... Vì nhậu ?


 Dân nghèo... vì nhậu

 July 25, 2013 By Guest Leave a Comment Blog của một bạn đọc (không thấy tên) gởi GNA.

        Các bạn cứ nhìn sang nền kinh tế của Hàn Quốc sẽ thấy. Diện tích, dân số họ nhỏ hơn ta, nhưng GDP gấp 10 lần nước ta. Tất cả là từ trí tuệ, sức lao động, cần kiệm của con người mà ra. Tôi nghĩ chính những người chi tiêu hoang phí, đặc biệt dùng tiền vào ăn nhậu là những người đáng trách nhất. Nếu ra một chiến dịch khảo sát về khoản chi cho ăn nhậu của người Việt Nam chắc chắn chúng ta sẽ không khỏi rùng mình trước khoảng tiền quá lớn đó. Mặt khác, quỹ thời gian mà họ bỏ ra để lê la trong quán nhậu là quá khủng khiếp. Cũng từ đó không biết bao nhiêu người vợ phải chịu cảnh đòn roi, ngược đãi của những ông chồng vũ phu, bạo lực khiến gia đình ly tán. Đó là còn chưa kể  tốn phí cho việc chăm nuôi những con bệnh gút, gan, tim… Vô hình trung những con người rượu bia đã tạo ra một thứ văn hóa “xôi thịt, ăn nhậu xô bồ”.
     Thiết nghĩ, nếu thời gian ăn nhậu dành cho nghiên cứu, học tập thì Việt Nam ta sẽ có thêm hàng loạt sáng chế có ích cho loài người. Giá như số tiền ăn nhậu đó được dùng cho các quỹ từ thiện thì giảm biết bao nhiêu cảnh cơ cực trong xã hội. Giá chúng ta ai cũng biết tiết kiệm, làm giàu thì đất nước chúng ta đã không nghèo. Các bạn cứ nhìn sang nền kinh tế của Hàn Quốc sẽ thấy. Họ là một đất nước có diện tích nhỏ chưa bằng 1/3 nước ta, đất nước họ ít tài nguyên, dân số chỉ bằng một nửa nhưng GDP gấp 10 lần nước ta, tại sao vậy?
      Tất cả là từ trí tuệ, sức lao động, cần kiệm của con người mà ra. Tôi nghĩ việc tiết kiệm trong ăn nhậu là hoàn toàn làm được. Thay vì các bạn uống 5-10 chai bia thì các bạn hãy giảm xuống uống 1-2 chai. Để dành tiền đó mà mua sữa, bánh kẹo cho con cái. Như vậy, con cái bạn vừa vui khi có một người cha tốt, bạn vừa sức khỏe và gia đình lại hạnh phúc. Mặt khác giảm được các tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông… Tôi thấy có những người nhậu nuốt cả mật cá, trăn rồi lăn ra chết, ăn đủ thứ lẩu có hóa chất, thực phẩm không rõ nguồn gốc hay uống cao trăn tưởng khỏe như trăn mà không biết sẽ bị liệt dương vĩnh viễn…
     Khi uống bia, rượu hãy nhìn xuống cái bụng của mình xem có đẹp, có tốt không? Hay là toàn bệnh tật ở trong đó? Chúng ta cần học tập tính thiết thực và tiết kiệm của các nước tư bản. Hiện nay, tỷ lệ giữa nhà hàng, quán nhậu so với các cơ sở sản xuất đang là con số quá lớn và thật đáng lo ngại. Chúng ta hãy biết chi tiêu hợp lý chứ đừng vãi tiền vô bổ, hãy tiết kiệm chứ đừng keo kiệt. Đó là lời tôi muốn chia sẻ đến mọi người.
     Ý kiến của Alan Phan: Tôi không có thì giờ để nghiên cứu sâu xa về vấn nạn này. Theo trí nhớ (có thể lầm), tôi đọc là dân Việt chi khoảng 2.7 tỷ USD mỗi năm cho bia rượu. 15 triệu người có thể được xếp hạng là…bợm nhậu (alcoholics), một tỷ số khá lớn. Nếu chỉ một triệu người (1/15) bị viêm gan hay ung thư trong 10 năm, gia đình hay xã hội phải chi tiêu khoảng 3,000 USD mỗi người mỗi năm tiền chữa bệnh. Mất 3 tỷ USD mỗi năm tương đương với 1 Vinashin? Mong các bạn chỉnh sửa lại các số liệu cho chính xác hơn. Cám ơn.
TQS post ngày 26/7/2013

18 thg 7, 2013

Lê Nhứt- Tiền Giang

10 phương pháp “chữa bệnh” không tốn tiền Động tác giả leo trèo - Chữa đau lưng Nằm ngửa, duỗi thẳng, giơ đầu gối chân phải về hướng ngực, hai tay giữ chặt ở mắt cá chân, đếm từ 1-10, sau đó thẳng chân phải, đổi chân trái và lặp đi lặp lại động tác. TS Lawrence - Hiệp hội thể thao Y học Mỹ cho biết, động tác giả leo trèo sẽ giúp cơ lưng được thư giãn, rèn luyện. Tuy nhiên cần tăng lượng vận động lên từ từ. “Nước ép cà chua ,ớt” - chữa cao huyết áp Mỗi ngày uống 250ml nước ép cà chua, 1 thìa nhỏ ớt cay. Joe .D. Gordon Crest Ridge - chuyên gia tim mạch viện Nevada cho biết: Do trong ớt có chất capsaicine, trong cà chua hàm chứa phong phú chất lycopene và kẽm, rất tốt cho việc thanh trừ các gốc tự do trong cơ thể, giảm thấp huyết áp. Nước mã đề - chữa mỡ trong máu Cây Bông mã đề TS Patrict - chuyên gia dinh dưỡng ĐH Bang Louisiana State cho biết, mỗi ngày uống một thìa nước mã đề (Xa tiền thảo) có thể giúp giảm 15% cholestrerol xấu LDL. Ít ăn tinh bột chữa đau nửa đầu Các loại tinh bột như cơm, mỳ …chứa rất nhiều chất bột - đường, dễ gây rối loạn đường huyết, từ đó gây ra đau nửa đầu. Nhà thần kinh học - TS. Lisa. K. Mannix kiến nghị, người bị bệnh đau nửa đầu mỗi ngày nên ăn dưới 300g các chất bột - đường. Châm cứu chữa mất ngủ Bậc thầy trong ngành châm cứu ở Newyork - TS Tela Han cho biết, châm cứu trị liệu chủ yếu tập trung vào hai huyệt ở trên tai, mục đích là làm cho người bệnh thư giãn, thúc đẩy giải phóng lượng chất dẫn truyền thần kinh và endorphin giúp trấn tĩnh tâm thần. Người mất ngủ lâu ngày cần ít nhất châm cứu 10 lần mới có thể có hiệu quả. Uống nước “chữa” nghiện thuốc Chuyên gia tâm lý học chuyên nghiên cứu tính phụ thuộc của sự vật - TS Horvath cho biết, đây là “ liệu pháp thay thế” điển hình vì về bản chất, hút thuốc và uống nước đều là động tác của “ tay-miệng”. Ngoài uống nước mỗi khi thèm hút thuốc còn nên chơi thể thao để chuyển dời sự tập trung sang việc khác. Tập thể dục cho mắt chữa cận thị Mỗi ngày tập thể dục cho mắt khoảng 25 phút. Mỗi tuần 6 ngày, liên tục trong 30 ngày. Động tác rất đơn giản, từ từ chuyển động đồng tử với vòng quay 360 độ. Leo núi chữa nghiện rượu GS tâm lý học Marat, ĐH Washington cho biết, leo núi có thể rèn luyện nghị lực cho con người, lập trường kiên định rất có ích để cai rượu. Thay đổi lối sống trị ung thư tiền liệt tuyến Theo Giám đốc Cơ quan Nghiên cứu Y học dự phòng Califonia - TS Aonishi, mỗi tuần ít nhất tập luyện thể thao 3 tiếng, ăn ít chất mỡ kết hợp với các liệu pháp giảm áp lực như yoga, trò chuyện tâm lý. “Bỏ đi- tập luyện- viết” chữa tức giận Đối với những người có tính khí hay nóng giận, bác sỹ tâm lý lâm sàng - TS Harbinson cho biết: Khi dự cảm việc tranh cãi đang ở trong giai đoạn sắp bùng nổ thì nên lập tức đứng dậy bỏ đi, hoặc tập luyện một môn thể thao cường độ mạnh nào đó sẽ giúp kiểm soát cơn tức giận tức thì. Còn về “lâu dài” thì viết ra những điều làm mình bực bội sẽ giúp tránh bốc hỏa. TQS post từ email của Lê Nhứt gửi cho. Ngày 18/7/2013

16 thg 7, 2013

Cách tiêu tiền

Tôi kể lại câu chuyện cuộc đời tôi, chỉ với mục đích muốn nhấn mạnh với các bạn rằng: Đồng lương cao hay thấp không quyết định là bạn sẽ giàu hay nghèo, mà cách tiêu tiền của bạn mới quyết định là bạn giàu hay nghèo. Tôi rất tâm đắc với một câu nói của một nhà hiền triết mà tôi đọc được ở đâu đó như sau “Không cần biết anh làm ra bao nhiêu tiền, chỉ cần nhìn cách anh tiêu tiền là biết anh sẽ giàu hay nghèo

14 thg 7, 2013

Lí Bạch

CHUYỆN “KỲ NHÂN” LÝ BẠCH


Thi tiên Lý Bạch
Thi tiên Lý Bạch
Tại huyện Châu Cẩm tỉnh Tứ Xuyên, đời vua Huyền Tôn nhà Đường có một người đàn bà nằm mộng thấy sao Trường Canh sa vào mình, thọ thai sanh đặng một đứa con trai giòng họ Lý. Vì sao Trường Canh có tên là Thái Bạch, cho nên bà đặt tên con bà là Lý Bạch, hiệu là Thái Bạch.
Lý Bạch mới lên mười tuổi mà dung nhan phong nhã, cốt cách phi phàm, lại có tinh thông thư sử, xuất khẩu thành thơ, ai ai đều cho Lý Bạch là một vì tiên giáng thế. Do đó mọi người gọi Lý Bạch là Là Trích Tiên ; và Lý Bạch cũng tự đặt cho mình biệt hiệu là Thanh Tiên cư sĩ. 
Con người đã vậy, thích gì đến công danh phú quý, Lý Bạch trọn đời ngâm thơ, uống rượu, du ngoạn khắp nơi, nghe chỗ nào có rượu ngon thì lần tới.
Tại Hồ Châu, quận Ô Tình đồn có rượu rất ngon, Lý Bạch chẳng quản đường xa ngàn dặm, lần tới, lên lầu gọi rượu đến uống say mèm.
Lúc đó, Tư mã Hồ Châu tên Già Diệp đi qua, nghe trên lầu có giọng ngâm thơ sang aảng, bèn cho người dò hỏi xem ai?
Lý Bạch đáp lại bằng 4 câu thơ như vầy:
Thanh Tiên cư sĩ trích tiên nhân,
Tửu tứ đào danh tam thập xuân
Hồ Châu Tư Mã hà tu vấn… ?
Kim túc như lai thị hậu thân
Nghĩa là :
Thanh Tiên cư sĩ ấy người tiên,
Với tuổi ba mươi rượu lại ghiền.
Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi…?
Hậu thân kim túc chớ nên phiền.
Tư Mã Hồ Châu nghe mấy câu thơ giật mình hỏi :
— A ! Té ra là Lý Bạch người đất Thục mà tôi không biết xin túc hạ hỉ xả cho.
Nói xong Hồ Châu mời Lý Bạch về công đường đã đằng mười ngày thơ rượu rất hậu.
Hồ Châu Tư Mã hỏi :
— Túc hạ là người có tài cao học rộng, dễ mà đoạt lấy đai vàng mũ bạc, tại sao túc hạ không đến trường an mà ứng thi ?
Nét mặt thản nhiên, Lý Bạch đáp :
— Cuộc thế đang hỗn loạn, chạy theo tiền tài xua nịnh, kẻ nào có tiền lo lót thì được đỗ cao. Chính con mắt đệ thấy thế nên đệ đành ngao du đây đó, uống rượu ngâm thơ, để tránh cái bực mình khi thấy bọn khảo quan dốt nát, tự cho mình là thần thánh, nhai đi nhai lại vài phuông sáo ngàn đời của cổ nhân. Họ nằm trong một đáy giếng mà họ những tưởng họ đang ở trong bể cả. Nực cười thay !
Tiếc vì tài năng quán thế mà không có chỗ dùng nên Tư Mã Hồ Châu tỏ lời an ủi :
— Danh tiếng của túc hạ lâu nay đã lừng lẫy, nếu túc hạ chịu xuống Trường an thì lo gì không có người tiến cử.
Cảm động trước tấm thịnh tình của Tư Mã Hồ Châu, Lý Bạch nghe theo, lên đường về Trường an ứng thí.
Khi về đến Trường an, Lý Bạch vào cung Tử Cục để du ngoạn lại gặp được Hạ Tri Chương đang giữ chức Hàn Lâm tại Triều.
Tuy mới gặp nhau, song hai người đã nghe danh nhau nên rất hâm mộ. Hạ Tri Chương mời Lý Bạch về nhà kết làm anh em, cả ngày đàm đạo, lúc thi ca, lúc tiểu nguyệt rất là tương đắc.
Chuỗi ngày thoăn thoắt trôi chẳng mấy lúc mùa thi đã đến.
Hạ Tri Chương bảo Lý Bạch :
— Mùa thi năm nay quan Chủ khảo Nam Tỉnh là Thái sư Dương Quốc Trung, anh ruột của Dương Qùa Phi, còn quan giám sát lại là thái úy Cao Lực Sĩ, cả hai người này thuộc về bọn tham ô, nhũng lạm. Hiền đệ tánh khẳng khái, không chịu luồn cúi kẻ tiểu nhân, lại không có vàng bạc để đút lót cho chúng thì dầu có tài xuất quỷ nhập thần đi nữa cũng khó mà chiếm được bảng vàng. Nhân tiện tôi có quen với hai người đó, vậy để tôi viết cho hiền đệ một bức thơ giới thiệu, may ra hiền đệ có thể đem cái thiên tài lỗi lạc của mình tạo thành sự nghiệp, vẻ vang thanh danh để thỏa cái chí bình sinh.
Trước lời tâm huyết, Thái Bạch không nỡ từ chối, đành để cho Hạ Tri Chương viết bức thơ giới thiệu, đem đến dâng cho thái sư Dương Quốc Trung, và thái úy Cao Lực Sĩ.
Hai người này xem thơ rồi cười lạt, bảo nhau :
— Chẳng biết cái lão Hạ Tri Chương đã mắc nợ Lý Bạch bao nhiêu vàng bạc mà ân cần viết thơ giới thiệu với chúng ta, lại nói miệng tày, không dâng một lễ vật gì cả. Đời nay những đứa thi nhân mơ mộng không hiểu lấy một chút nhân tình. họ Lý thơ thì hay thật, song xử thế thì rất vụng về. Há dễ họ không biết đời nay tiền tài phải đi trước nhân nghĩa sao ? Vậy thì hễ đến ngày tựu trường, chúng ta thấy tên Lý Bạch cứ việc đánh hỏng ngay để cho họ một bài học kinh nghiệm đời vậy.
Rồi ngày thi đến… Khoa thi mở rộng để chọn nhân tài. Bọn khảo quan tham ô đã đồng ý sẵn, nêu ra câu thi sấm như vầy :
“Bất nguyện văn chương quán thiên hạ, chỉ nguyện văn chưrơng trúng khảo quan”.
Nghĩa là : “Chẳng mong văn chương hơn mọi người, chỉ mong văn chương hợp ý quan trường”.
Dĩ nhiên, Lý Bạch văn chương lỗi lạc, sức lực có thừa, chỉ trong chốc lát đã làm xong thi quyển đem nạp cho quan trường.
Dương Quốc Trung tiếp lấy, xem qua thấy tên Lý Bạch bèn lấy bút son gạch tréo, đánh hỏng, rồi chỉ vào mặt Lý Bạch nói :
— Chỉ đáng mài mực để hầu người…
Cao Lực Sĩ cũng a dua nói :
— Hạng thí sinh ấy chỉ đáng tháo giày, xỏ tất mà thôi.
Nói xong, đuổi cổ Lý Bạch ra khỏi trường thi.
Lý Bạch uất hận tràn đầy, trở về nội phủ than ngắn thở dài, thầm trách những kẻ tham ô, tật đố và nói với Hạ Tri Chương rằng :
— Nếu sau này mà tôi có đắc lộc, quyết sẽ bắt thái sư Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho đền lại những ngày nhục nhã.
Hạ Tri Chương thế cũng đau lòng, vội vàng khuyên giải :
— Hiền đệ chớ có nản lòng, hãy cứ ở lại tệ xá, chờ ba năm nữa đến kỳ thi, may ra gặp những khảo quan thanh liêm chánh trực, chừng ấy hiền đệ được bảng hổ đề tên cũng chưa muộn.
Lý Bạch nghe theo. Từ đó hai người tri kỷ, lúc vịnh nguyệt, lúc mơ trăng không nhắc gì đến chuyện thi cử nữa cả.
Bỗng một hôm, sứ giả nước Phiên đem thơ đến triều. Vua Huyền Tôn giáng chiếu sai Hạ Tri Chương ân cần tiếp đãi sứ giả.
Rạng ngày hôm sau, vua Huyền Tôn lâm triều, truyền cho sứ giả dâng thơ, và khiến Hạ Tri Chương mở ra xem trước long án.
Hạ Tri Chương mở bức thơ ra không biết một chữ nào cả.
Vua Huyền Tôn tức giận cho đòi cả triều thần văn ban, võ bá đến, hỏi xem có ai biết được thứ chữ riêng của nước đó không ? Cả triều thần đều mù tịt.
Huyền Tôn đập long án hét :
— Trong triều có bao nhiêu người lãnh bảng vàng bia đá, lộc cả quyền cao, lúc bình thường thì múa môi khua mép, đến lúc hữu sự lại nín tiếng câm hơi. Chẳng lẽ chừng ấy, cẩm bào, chừng kia hốt bạc mà không được lấy một người học rộng tài cao để đọc bức thơ của Phiên quốc ? Nếu thơ không đọc được thì biết đâu mà trả lời, và như thế còn gì thể diện của Thiên Triều nữa. Trẫm hạn cho các khanh 6 ngày nếu không đọc được bức thơ của Phiên quốc thì Trẫm sẽ cách chức hết.
Các quan văn võ, ai nấy mặt mày tợ nhuộm chàm, đứng ngơ ngẩn nhìn nhau như những bức tượng đá.
Lúc bãi triều, Hạ Tri Chương buồn bực trở về nhà kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Lý Bạch nghe. Lý Bạch tủm tỉm cười rồi ngao ngán nói :
— Nếu khoa thi trước kia mà không có những bọn gian thần tham nhũng thì ngày nay triều đình đâu có cái nhục đó !
Hạ Tri Chương nghe Thái Bạch nói, giật mình hỏi :
— Thế ra hiền đệ có thể đọc được chữ của nước Phiên sao ?
Lý Bạch khiêm tốn đáp :
— Có lẽ…
Hạ Tri Chương mừng rỡ vô cùng. Sáng hôm sau, Hạ Tri Chương vào triều thật sớm, ngồi đợi nơi viện Đãi Lâu.
Ba hồi chuông Cảnh dương nổi dậy, tiếp theo ba hồi trống Long Phụng rung lên, vua Huyền Tôn vội vã từ giã các cung phi lâm triều.
Triều thần bái yết xong, Hạ Tri Chương quỳ tâu :
— Muôn tâu Bệ hạ, muốn đọc bức Phiên thư, hạ thần nhắm đi nhắm lại trong nước chỉ có một người. Người ấy họ Lý tên Bạch, một kẻ học rộng tài cao, thiên tư lỗi lạc, ngoài ra không còn ai nữa.
Vua Huyền Tôn phán hỏi :
— Lý Bạch hiện nay ở đâu ?
— Tâu Bệ hạ, Lý Bạch hiện đang ở nhà hạ thần.
Vua Huyền Tôn chuẩn tấu cho người đến tư dinh Hạ Tri Chương để thỉnh Lý Bạch.
Sứ giả đi một lúc trở về tâu :
— Tâu Bệ hạ, hạ thần đã đến mời Lý Bạch nhưng Lý Bạch không chịu yết kiến, viện lẽ là kẻ vô tài kém đức, không đáng mặt triều kiến Bệ hạ.
Nhà vua hỏi lại Hạ Tri Chương :
— Lý Bạch không chịu phụng chiếu vì lẽ nào vậy ?
Hạ Tri Chương đáp :
— Tâu Bệ hạ, Thái Bạch vì hiện có cái nhục năm trước vào trường thi bị khảo quan đánh hỏng đuổi ra trường. Nay áo vải vào triều nên hổ thẹn, vậy xin Bệ hạ rộng lượng ban ơn huệ, thì thế nào y cũng phụng chiếu.
Huyền Tôn y tấu, sai người đến phong chức tiến sĩ cập đệ cho Lý Bạch, lại cấp đai vàng, bào tía, hốt ngà, mão gấm để cho vẻ vang nhà thơ “tửu hứng tiên thơ…”
Hạ Tri Chương còn sợ Lý Bạch không khứng, nên trở về nhà bảo Bạch :
— Nay Thiên Tử đã có lòng ái mộ hiền nhân, vậy hiền đệ đừng vì hiềm tˇ lũ tham quan mà phụ lòng Thiên Tử, bỏ lỡ dịp may.
Bạch vâng lời, mặc triều phục, theo Hạ Tri Chương vào triều bái yết.
Huyền Tôn thấy Lý Bạch cốt cách đoan trang, phong lưu tuấn tú như vị tiên giáng thế, trong lòng thầm phục, và phán rằng :
— Nay có thư Phiên quốc đưa đến, cả triều thần không ai đọc nổi, vậy trẫm triệu khanh đến để cùng trẫm chia lo.
Thái Bạch tâu :
— Tâu Bệ hạ, tài năng của hạ thần chưa đủ làm vừa ý khảo quan thì dám đâu mong làm vừa lòng Bệ hạ.
— Khanh đừng tự hạ mình như thế, xem tướng mạo của khanh, trẫm đã biết tài của khanh đến bực nào rồi.
Nói xong, Huyền Tôn sai thị vệ đòi Phiên sứ đến.
Lý Bạch mở thư trước mặt sứ thần đọc to :
“Đại Khả Độc nước Bột Hải gởi Đường Triều khẩn khán :
Từ khi người chiếm cứ nước Cao Ly đến nay, hai biên giới tiếp liền, binh sĩ hai bên nhiều lần gây hấn. Bản quốc không thể nhẫn nại trước hành động của quân gia Đường quốc nữa, nên sai sứ đến Đường triều, nếu thuận thời đem tất cả một trăm bảy mươi sáu thành Cao Ly nhường lại cho bản quốc, sẽ có những tặng phẩm sau đây phụng tặng : nai Hạnh sơn, vóc Nam Hải, trống Bành thành, hưu Phù dư, lợn Trịnh hiệc, ngựa Suất Tân, lục ốc châu, cá Vị Đà, mận Cửu Lộ, lê Lạc Ty.
Nếu kháng à, bản quốc sẽ cho binh biến, chừng ấy máu rây ngàn dặm, ăn năn thì đã muộn, chớ trách bản quốc không cho biết trước”.
Huyền Tôn nghe xong bức thư mặt mày biến sắc, hỏi văn võ bá quan :
— Nay Phiên vương ngạo mạng Thiên Triều lại hăm chiếm đoạt Cao Ly, vậy các khanh có cách gì chế ngự không ?
Cả đình thần đều im bặt.
— Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ hỏi thử Thái Bạch có ý kiến gì hay chăng ?
Huyền Tôn hỏi Lý Bạch, Lý Bạch tâu :
— Việc này không có gì đáng để Thánh Thượng phải nhọc tâm. Ngày mai, xin Bệ hạ cho đòi Phiên sứ vào triều, hạ thần sẽ viết một phong thư bằng chữ Phiên bang mà trả lời, cho chúng nó một bài học thích đáng thì chúng nó phải phục tòng.
Huyền Tôn hỏi :
— Trong thư tự xưng là Khả Độc, vậy Khả Độc là người nào ?
Lý Bạch tâu :
— Khả Độc là tên vua nước Bột Hải.
Thấy Lý Bạch đối đáp thông suốt, vua Huyền Tôn bèn phong cho Bạch chức Hàn Lâm học sĩ, lại truyền tứ yến tại Kim Loan, cho phép Lý Bạch tự do chè chén, không phải bó buộc vào nghi lễ.
Bạch uống rượu đến say tít cung trăng, không còn biết đất trời gì cả. Nhà vua sai thị vệ đỡ Bạch lên nằm ở Điện tiền.
Hôm sau, đầu trống canh năm vua Huyền Tôn đã lâm triều còn Lý Bạch say mèm chưa tỉnh.
Bọn nội thị lay gọi, Lý Bạch vẫn nằm ỳ ra đấy. Nhà vua thấy thế bèn bắt ngự trù nấu canh cho Lý Bạch ăn để giải rượu.
Lúc thị vệ dâng canh lên nhà vua thấy canh còn nóng bèn tự mình cầm thìa khuấy cho nguội để cho Lý Bạch dùng.
Lý Bạch tạ Ơn, dùng xong mấy thìa canh thấy trong người tỉnh mỉnh, ma men bay đâu mất.
Một lúc sau, Phiên sứ vào triều kiến, Lý Bạch đứng bên ngự tọa, tay cầm bức thư của Phiên sứ đọc rất to, không lầm lộn một chữ nào.
Phiên sứ thấy thế sợ sệt vô cùng.
Lý Bạch thay vua phán rằng :
— Nhà ngươi là sứ một tiểu quốc lại dám vô lễ với thiên triều, lẽ ra phải xử tội; tuy nhiên, thánh thượng dùng lượng cả bao dung, vậy nhà ngươi hãy phục sẵn dưới thềm để chờ lời phê chiếu.
Vua Huyền Tôn truyền đặt văn kỷ thất bảo bên Ngự Tọa, dùng nghiên Bạch Ngọc, bút ngà, mực Long Yên, giấy Kim hoa tiên và nhắc cẩm đôn đến đặt bên Ngự tọa để cho Lý Bạch thảo chiếu.
Lý Bạch tâu :
— Giày của hạ thần không được thanh khiết cho lắm, e phạm đến Thánh thể, vậy xin Bệ hạ cho phép hạ thần được cổi giày đi tất không, để lên điện ngọc.
Vua Huyền Tôn nghe nói, toan truyền bọn nội thị tháo giày cho Lý Bạch, nhưng Lý Bạch đã tâu thêm :
— Hạ thần có một lời, xin Bệ hạ tha cho hạ thần cái tội cuồng vọng này.
— Được, khanh muốn gì cứ việc tâu, dù khanh có lầm lỗi đến đâu, trẫm hứa không chấp trách.
Lý Bạch tâu :
— Ngày trước hạ thần vào thi bị thái sư Dương Quốc Trung và thái úy Cao Lực Sĩ đánh hỏng. Nay hai người có mặt làm cho văn khí hạ thần bị bế tắc. Vậy muốn cho văn ý của hạ thần được phấn khởi, rửa nhục cho quốc vương, xin Bệ hạ truyền cho thái úy tháo giày và thái sư mài mực để cho hạ thần thảo chiếu.
Vua Huyền Tôn nghe qua sững sốt, nhưng không biết phải làm sao, đành truyền chỉ bắt Dương Quốc Trung mài mực, Cao Lực Sĩ tháo giày cho Lý Bạch. Hai người này tự biết không thể cãi lịnh đành phải cúi đầu trơ mặt tuân hành trước văn ban võ bá.
Lý Bạch đắc à, ngạo nghễ ngồi trên cẩm đôn, một tay vuốt râu, một tay múa bút.
Thảo xong tờ chiếu, Lý Bạch đứng lên long án.
Vua Huyền Tôn thấy tự tích không khác gì bức thư của Phiên bang, tuy không nói ra, lòng rất đẹp à, nghĩ thầm : “Con người tài cao học rộng như vầy, dầu ta có bắt thái sư mài mực, thái úy tháo giày cũng là việc phải”.
Nghĩ xong, truyền cho Phiên sứ phục chỉ.
Lý Bạch đến trước Ngự tọa, cao giọng đọc bức chiếu thư :
“ Hoàng đế Thiên triều chiếu dụ cho Khả Độc nước Bột Hải biết : trước đây Thạch Nhoãn đầu phục, Đà Long lai hàng, bản triều ứng theo mệnh trời mà lập ngôi Hoàng đế, lấy đức vỗ bốn phương, lấy oai trị thiên hạ, binh hùng tướng mạnh, các nước lân cận thảy khiếp oai. Điệt Lợi bội thề nên bị bắt, Tán Phổ khiếp vía phải hàng đầu; Tân La, Thiên Trúc, Ba Tư hằng năm dâng cống lễ; Lâm ấp, Cốt Lợi, Nê Rà La, đều sợ thế chẳng dám giở đao binh.
Cao Ly vì trái ý Thiên trièu, nên bị Thiên triều vấn tội. Tấm gương ấy đáng cho nước nhà ngươi soi. Nay nước Bột Hải chỉ là một nước phụ thuộc của Cao Ly, sánh với Trung Quốc chẳng quá là một quận bé nhỏ, binh tướng, lương thực có bao nhiêu mà dám châu chấu đá voi. Nếu nghịch mạng trời ắc là không tránh khỏi tội.
Nay Thiên triều đức trọng ơn dày, lấy lời nhơn nghĩa mà dung thứ cho kẻ cuồng si ; vậy khuyên Khả Độc mau sớm tỉnh ngộ, xưng thần nộp cống, cãi lịnh, xương phơi thành núi, máu chảy thành sông, mua cười cho thiên hạ”.
Nay dụ.
Vua Huyền Tôn nghe đọc, khoan khoái vô cùng, truyền nội giám trao lời chiếu cho Phiên sứ.
Phiên sứ cũng thất kinh không dám nói một lời, cúi đầu bái mạng, rồi bước ra.
Hạ Tri Chương đưa Phiên sứ ra đến cửa ngọ môn, Phiên sứ hỏi :
— Người thảo chiếu làm chức chi trong triều mà lại khiến thái sư mài mực, thái úy tháo giày như thế ?
Hạ Tri Chương đáp :
— Người ấy tên Bạch họ Lý, được phong làm chức Hàn Lâm học sĩ. Đấy là một bậc thần tiên trên cung trời trích giáng để giúp Thiên triều. Thái sư, thái úy bất quá là một người phàm, há đi mài mực cho ông ta không đáng sao ?
Phiên sứ ghi nhớ mọi điều, về đến kinh đô tâu lại đầu đuôi cho vua xứ Bột Hải rõ. Khả Độc nghe nói có thần tiên giáng trần giúp sức nên khiếp đởm, bao nhiêu ý tưởng khinh dễ điều tiêu tan cả, vội vã viết hàng thư sai người đem lễ vật triều cống như trước.
Vì vậy, vua Huyền Tông trọng đãi Lý Bạch vô cùng, muốn gia phong cho Lý Bạch thêm chức tướng nhưng Lý Bạch một mực từ chối :
— Tâu Bệ hạ, bạc tiền, châu báu, chức tước đối với hạ thần không thích thú bằng tiêu dao nhàn hạ, xin Bệ hạ cứ cho giữ tước Học sĩ du ngoạn, hễ gặp rượu ngon thì uống, đủ vậy.
Biết Lý Bạch là bực thanh cao không dám làm phật lòng. Từ đấy cứ lâu lâu nhà vua lại mở yến diên thết đãi và thỉnh thoảng triệu Lý Bạch vào cung nội để bàn việc quốc sự.
Một hôm, Bạch cỡi ngựa thẩn thơ trước trường an, bỗng gặp một bọn đao phủ dẫn một chiếc tù xa đến pháp trường. Hỏi ra mới biết đó là viên tướng phạm tội, từ Tinh Châu giải về sắp hành quyết. Người ấy họ Quách tên Tử Nghi.
Lý Bạch thấy Tử Nghi mày ngài hàm én, biết là một tên kiện tướng có thể làm rường cột cho quốc gia sau này, bèn vội vã ra lệnh cho đao phủ thủ tạm ngưng việc hành quyết.
Dặn xong, Lý Bạch cỡi ngựa về triều cầu xin một đạo chỉ ân xá tội nhơn, rồi lại phi ngựa ra pháp trường, mở tù xa, thả Tử Nghi ra mà khuyên nhủ nên gắng sức đoái công phục tội để khỏi phụ lòng mong ước của Bạch.
Tử Nghi lạy tạ Ơn cứu mệnh, hỏi tên họ Lý Bạch rồi từ giả.
Lúc bấy giờ nơi hoàng cung đến mùa hoa mẫu đơn đua nở, khoe sắc đủ màu. Giống hoa này là giống hoa Mộc thược dược của nước Dương Châu đem cống hiến, gồm có 4 thứ là : Đại Hồng, Thâm Tử, Thiển Hồng và Thông Bạch.
Vua Huyền Tôn truyền dời những hoa ấy đến điện Trầm Hương để ngắm cung phi, thưởng hoa dưới nguyẹt, lại đòi bọn đệ tử Lê Viên đến đó hòa nhạc cho vui.
Tuy nhiên, vì chán nghe những bản nhạc cũ, nên nhà vua phán rằng :
— Ngắm cung phi, thưởng danh hoa, không nên nghe những khúc cổ nhạc nhàm tai mãi.
Vua truyền cho một con hát có danh tên là Là Quy Niên đến triệu thỉnh Lý Bạch vào cung.
Là Quy Niên tìm mãi mới gặp Lý Bạch đang say mèm trong quán rượu, và đang ngâm thơ :
Tam bôi thông đại đạo
Nhất đẩu họp tự nhiên
Đản đắc tửu trùng thú
Vật vi tỉnh giả truyền
Nghĩa là :
Ba chung rành đạo lớn
Một đấu hợp tánh thiêng
Say sưa trong thú rượu
Còn hơn kẻ tỉnh điên
Giọng thơ ran rản bên ngoài, Là Quy Niên biết đúng là Lý Bạch, vội lần vào quán và truyền mệnh lệnh của Huyền Tôn :
— Thưa học sĩ, Thánh thượng va Quý Phi hiện đang ngự tại điện Trầm Hương, dạy đòi học sĩ đến để đàm đạo, xin học sĩ đi ngay cho.
Lý Bạch không đáp, trợn đôi mắt đỏ ngầu nhìn Là Quy Niên rồi ngâm tiếp một đoạn thơ của Đào Uyên Minh, cùng một giòng ma rượu :
Ngã túy dục miên, quân thả khứ
Nghĩa là :
Ta say thích ngủ, đừng ai đến
Ngâm xong, Lý Bạch nhắm mắt ngủ li bì, chẳng kể gì đến lệnh vua chúa gì hết…
Là Quy Niên thấy thế cười ngặt nghẽo, gọi năm bảy tên tùy tùng leo lên lầu khiêng Lý Bạch xuống, đặt lên yên ngựa, đỡ hai bên, để cho ngựa chở thẳng về lầu Ngũ Phượng. Xong vào báo cho vua Huyền Tôn rõ.
Vua Huyền Tôn đặc cách cho phép Lý Bạch được đi ngựa thẳng vào Trầm Hương, rồi cùng với Phi Tử lên lầu nhìn xuống thấy Lý Bạch ngồi ngất ngưỡng trên lưng ngựa, xiêu bên này, vẹo bên kia, ai trông thấy cũng phải tức cười.
Vào đến điện Trầm Hương, Lý Bạch nằm vật trên long khảm mắt nhắm híp, miệng chảy đầy nước dãi… Nhà vua xem thấy động lòng, vội lấy áo long bào lau cho đứa con cưng của “Nàng thơ”.
Phi Tử tâu :
— Muôn tâu, thần thiếp nghe người ta nói nước lạnh có thể dùng giải rượu được.
Vua nghe nói liền sai thị vệ đem nước lạnh đến giải rượu cho Lý Bạch. Quả nhiên, vừa uống cạn ly nước, Lý Bạch tỉnh rượu ngay, vội vàng quà mọp xuống đất tạ tội.
Nhà vua đỡ Lý Bạch dậy và nói :
— Nay trẫm cùng Phi Tử thưởng hoa, muốn có một khúc nhạc tân kỳ, vậy nên triệu khanh đến để viết khúc ca chương thanh bình điệu.
Thấy văn phòng tứ bảo đã đặt sẵn trước mặt, Lý Bạch liền cầm bút thảo ngay :
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng
Nhược phi quần ngọc sơn đầu kiến,
Hội hướng giao đài nguyệt hạ phùng ;
Dịch :
Mây vờn như áo, hoa như mặt
Sương đượm hơi xuân, lướt bóng hoa.
Quần ngọc đầu non bằng chẳng thấy,
Cung giao ngỡ tưởng bóng trăng tà…
Nhất chi hồng diểm lệ ngưng hương,
Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán Cung thùy đắc tự ?
Khả lân Phi yến ỷ tân trang !
Dịch :
Một cành hồng thắm đượm hơi hương,
Mưa gió non vu luốn đoạn trường.
Hỏi thử Hán Cung ai dám sánh ?
Khá thương Phi Yến chốn Tân trang !
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Tường đắc quân vương đới tiếu khan…
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm hương đình bắc ỷ lan can.
Dịch :
Hương trời, sắc nước gợi vui tươi,
Tửu mến quân vương hé nụ cười…
Gió thoảng hơi xuân vô hạn hận,
Trầm hương đứng ngắm tựa lan can.
Lý Bạch viết xong dâng lên, Huyền Tôn xem thấy tình ý tuyệt trần, trong lòng phơi phới, truyền cho Là Quy Niên theo điệu mà hát.
Quý Phi lạy tạ Ơn vua đã chiếu cố đến mình.
Huyền Tôn ói :
— Không phải tạ Ơn trẫm, khanh nên tạ Ơn Học sĩ mới phải.
Quý Phi lấy ve vàng chén ngọc rót đầy ly rượu, sai cung nữ đưa mời Lý Bạch.
Từ đó trong cung lúc nào có yến tiệc cũng mời Lý Bạch đến. Quý Phi yêu mến Lý Bạch khác thường, mối tình tài tử giai nhân chớm nở cũng như sợi dây oan nghiệt nghìn đời ràng buộc mãi với kiếp người tài hoa.
Lẽ ra có thể làm đổ nước nghiêng thành đi được, song Lý Bạch lại là người chỉ thích có rượu thơ, đâu có tham vọng những mùi vinh hoa phú quý. Nhà thi sĩ tài hoa kia lạnh nhạt trước mối tình thầm kín của Quý Phi. Còn Quý Phi yêu mà không được người ta yêu lại, bực tức đến nỗi sanh ra thù oán. Sự đời là thế, chữ yêu đổi ra chữ oán không mấy hồi.
Lúc bấy giờ trong triều có Cao Lực Sĩ là hạng rắn độc, trong lòng ấp ủ mối thù với Lý Bạch bắt y tháo giày thuở nọ, nên thăm dò biết được mối tình tuyệt vọng của Đào Quý Phi có thể dùng làm lợi khí cho hắn phun độc dược, liền thừa cơ hội ấy dèm pha rằng :
— Theo ngu ý của kẻ hèn này thì ba bài bình điệu của Lý Bạch lẽ ra Nương Nương phải oán ghét lắm mới phải, cớ sao Nương Nương lại ngợi khen đến thế ?
Quý Phi hỏi :
— Tại sao mà nhà ngươi lại cho là phải oán ghét ?
Cao Lực Sĩ rót nhẹ ly rượu vào gói thuốc độc rồi nói :
— Tâu lệnh bà, câu : “Khả lân Phi Yến ỷ tân trang” nó hàm một nghĩa châm biếm vô cùng.
Chắc Nương Nương cũng rõ nàng Triệu Phi Yến thuở xưa là bậc Hậu Phi của vua Thành Đế, được nhà vua quà chuộng hơn cả. Phi Yến lại sai mê Sích Phượng và cùng người ấy tư thông. Chẳng may vua Thành Đế biết được, bắt gặp Sích Phượng trong tủ áo, đem giết ngay trước mặt Phi Yến. Nay Lý Bạch đem Phi Yến sánh với Nương Nương thì đó là một lời nhạo báng rất bóng bẩy. Xin Nương Nương xét k˛ !
Thuở ấy Quý Phi có nuôi chàng An Lộc Sơn làm con nuôi trong tư cung. An Lộc Sơn với Quý Phi ngang tuổi nhau, thế mà Quý Phi ngày hai ba lần thân hành tắm rửa cho đứa “con cưng” ấy trước mặt vua Huyền Tôn, mà vua Huyền Tôn cũng không nói gì cả. Thật Quý Phi còn tệ hơn nàng Phi Yến thuở trước.
Cao Lực Sĩ khéo châm ngòi, đốt lửa, gây vào lòng Quý Phi một mối hận thù với Lý Bạch, nên Quý Phi tâu với Huyền Tôn rằng Lý Bạch ngạo nghễ, không giữ lễ quân vương.
Bắt đầu từ đó, các cuộc yến ẳm trong cung không mời Lý Bạch vào nữa. Và Huyền Tôn cũng không hỏi Lý Bạch về việc triều chính nữa.
Lý Bạch cảm thấy lòng yêu chuộng của Huyền Tôn mỗi lúc một lạt lẽo lần, đoán biết Cao Lực Sĩ mưu hại, và Quý Phi cố báo thù, nên nhiều lần tâu xin đi nơi khác, nhưng vua Huyền Tôn cố cầm ở lại.
Lý Bạch buồn bã, càng ngày càng dầm mình sống trong bể rượu, không thiết tha đến việc đời nữa. Cả đến người vợ của Lý Bạch ở tại Cẩm Thành là Hứa phu nhơn, cũng không bao giờ được Bạch tưởng đến. çi “Phòng không lặng ngắt như tờ, ngựa ai thấp thoáng lờ mờ hơi sương”. Hứa phu nhơn trông tin mòn mỏi mà chẳng thấy Lý Bạch đâu !
Trong các bợm rượu thân tín với Lý Bạch thời ấy là Hạ Tri Chương, Là Thích Chi, Nhữ Dương, Vương Kiến, Thôi Tông Chi, Tô Tấn, Trương Bậc, Tiêu Thại, thường hay say sưa ngả ngớn mà người ta gọi là “ẳm trung bát tiên”.
Một hôm tốt trời, vua Huyền Tôn truyền đòi Lý Bạch vào cung để phóng thích con “Phượng Hoàng muôn thưở” ấy về với đồng nội cỏ hoa cho thỏa lòng ao ước.
Huyền Tôn có đôi lời an ủi :
— Trẫm thấy khanh tài năng lỗi lạc, tánh tình lại thanh bạch nên đem dạ mến yêu. Nay trẫm tạm cho khanh được vinh quy, vậy khanh có cần thứ gì trẫm sẽ ban cấp cho.
Lý Bạch tâu :
— Hạ thần không cần gì cả, ngoài một món tiền để uống rượu thôi.
Vua Huyền Tôn hạ chiếu, truyền rao khắp nơi, cho phép Lý Bạch đến đâu uống rượu không phải trả tiền. Số tiền ấy sẽ do ngân khố thanh toán.
Nhà vua lại ban thêm vàng bạc, đai y và cấp 12 đứa tùy tùng theo hầu Lý Bạch.
Lý Bạch cúi lạy tạ Ơn và nghĩ rằng :
“Vì vua này quả có đôi mắt xanh tương đối vậy”.
Huyền Tôn lại thân cắm hai đóa hoa vàng trên mũ Lý Bạch rồi truyền nội thị đỡ Bạch lên ngựa trước ngai vàng, đưa ra khỏi triều môn. Đó là một ân huệ đặc biệt đối với các vua nước Tàu thời ấy.
Các quan đưa đón, rượu tiễn lời chào từ Trường An đến mười dặm đường chưa dứt.
Chỉ có thái sư và thái úy, hai người lánh mặt, ngồi nhà hả hê sung sướng, khen ngợi diệu kế của mình đã khéo “tống cổ” được tên “thi sĩ cứng đầu” ra khỏi triều để dễ bề thao túng.
Hạ Tri Chương và cả bợm rượu đều đưa Lý Bạch ngoài trăm dặm, viết đến hơn trăm bài thơ tống biệt mà vẫn chưa cạn tâm tình.
Lý Bạch đi rồi, Hạ Tri Chương cảm thấy lòng mình hiu quạnh như mất một cái gì không bao giờ còn tìm thấy nữa.
Có lẽ trong đời nghệ sĩ của Lý Bạch, chỉ có Hạ Tri Chương là người yêu Bạch nhứt.
Trên đường về, tuy Bạch cảm thấy vui với cỏ nội, mây ngàn, tìm lại những cái gì xa xưa đã mờ khuất, song cũng không khỏi bồi hồi, nhớ đến Hạ Tri Chương người bạn tâm giao, cảm nghĩa cùng nhau nhưng yêu nhau không trọn.
Ngày kia, Lý Bạch về đến Cẩm Châu, gặp lại Hứa phu nhơn, vợ chồng tương mến, duyên cầm sắt lại giao hòa, nối lại tiếng đàn xưa trong tâm hồn thi sĩ.
Các bè bạn xa gần trên đất Thục, chiều sớm lân la, rượu thơ túy lúy. Thật là một cảnh an nhàn.
Thế mà : “Nửa năm hương lửa đang nồng, trượng phu thoắc đã động lòng bốn phương”. Cho hay con chim trời không bao giờ chịu đậu một nơi, dù nơi đó là nơi cảnh đẹp hoa tươi, suối ca, gió hát.
Một sớm tinh sương, Lý Bạch tỏ ý với vợ muốn đi du ngoạn sơn thủy. Mặc dầu Hứa phu nhơn nghe nói cũng buồn lòng, nhưng nàng đâu phải là chiếc lòng son có thể nhốt được loài chim trời cuồng vọng ấy được, đành sửa soạn cuộc chia phôi.
Lần này ra đi, Lý Bạch không xúng xính mũ cao, áo rộng của chức Học sĩ nữa, mà chỉ ăn mặc theo lối thư sinh, hay nói cho đúng hơn là một gã học trò nghèo, chỉ đem theo một thằng đồng tử con con và cỡi một con ngựa ôm ốm, và như thế cũng đã phong lưu chán rồi.
Một hôm, Lý Bạch đi đến huyện Hoa Ñm. Tiếng đồn quan huyền này là một vị quan tham ô nhũng lạm, mọt nước, hại dân. Lý Bạch định ý “sửa lưng” tên quan chức mục nát ấy.
Bạch đến trước huyện, cho ngựa đi thẳng vào cổng, đánh ba hồi trống làm như không biết huyện quan đang xét việc nơi công đường.
Huyện quan nghe có tiếng trống đổ hối hả thất kinh tưởng là giặc đến, dớn dác muốn tìm đường tẩu thoát. Sau biết rõ giận lắm, sai lính lệ xuống lôi cổ Lý Bạch lên công đường hạch hỏi.
Lý Bạch giả say, không đáp. Quan huyện truyền đem tống cổ tên bợm rượu ấy vào lao để chờ truy cứu.
Khi Lý Bạch vào lao được một lúc thì thấy một tên lính lệ mang mực, giấy đến vất vào mặt bảo phải cung khai đầu đuôi câu chuyện, nếu không thì đánh chết.
Lý Bạch mỉm cười, cầm bút viết một hồi :
“Ta là Lý Bạch, quê ở Cẩm Châu, nhỏ tuổi, rộng văn chương vung bút giết loài nịnh, Trường An gọi bát tiên, Trúc Khê xưng Lục Dật; thảo chiếu trừ Phiên quốc, Điện ngọc tự do vào uống rượu mà giải trí, Kim loan chỗ nghỉ ngơi, canh nóng có vua khuấy, dãi chảy áo vua lau, Dương thái sư mài mực, Cao thái úy tháo giày. Trước sân rồng Hoàng Đế còn cho ta cỡi ngựa, huống chi tại huyện Hoa Ñm các ngươi lại buộc ta không được cỡi lừa ư ?”
Viên chủ ngục xem xong lời cung, mình mẩy rụng rời, tay chân run lập cập, vội vã quỳ xuống tạ tội.
Lý Bạch nói :
— Việc này không can hệ gì đến nhà ngươi đâu. Nhà ngươi hãy mau đến công đường nói cho quan huyện biết rằng ta vâng chỉ Hoàng Thượng đến đây để tra xét tội tham ô của hắn, sao hắn lại dám bắt ta hạ ngục ?
Viên chủ ngục vội vã mang tờ cung khai đến trình lên tri huyện và thuật lại những lời Lý Bạch vừa nói.
Tri huyện khiếp vía nắm tay tên chủ ngục chạy thẳng đến lao xá, bắt từ bên ngoài lạy vào, rên rỉ xin Lý Bạch dung tha cho đứa ngu hèn.
Các phủ huyện quanh vùng nghe tin lập tức đến nơi chào mừng Học sĩ và mời Học sĩ thăng thính đường để xin những lời chỉ giáo.
Lý Bạch lấy lời liêm chánh răn dạy mọi người, ai nấy đều vui vẻ nghe theo.
Từ đấy Lý Bạch đi đến đâu, các tham quan, ô lại nể mặt không dám hành hạ dân lành như trước nữa.
Kế một thời gian sau đó An Lộc Sơn — đứa con nuôi của Quý Phi — nổi loạn, tụ tập một số cường đố cướp bóc Trường An. Vua Huyền Tôn phải bỏ kinh đô chạy vào đất Thục, giết thái sư Dương Quốc Trung trước mặt ba quân, và thắt cổ Quý Phi tại gò Mã Ngôi; mặc dầu những giòng lệ chảy ước long bào, ông vua đa tình kia cũng phải buộc lòng dứt bỏ lời thề trong đêm thất tịch “tại thiên nguyện tác tị dự điểu, tại địa nguyện vi liên là chí” : “Trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành”.
Khúc trường hận của Huyền Tôn đã được nói lên trong lời văn thiết tha bi đát của nhà thi sĩ áo xanh “Giang Châu Tư Mã” với nỗi hận lòng gởi gắm niềm riêng.
Lý Bạch lúc ấy tránh loạn ẩn tại Lư Sơn. Vĩnh Vương Lân lúc bấy giờ lại làm Tiết độ sứ quản thủ cả vùng đông nam nước Tàu.
Vì thấy Huyền Tôn rời bỏ kinh đô, thiên hạ đại loạn, nên ý cũng muốn “thừa cơ một thưở” bèn sai sứ giả đến triệu Lý Bạch về giữ lại trong quân để bàn việc “đại kế”.
Chẳng bao lâu con trai của Huyền Tôn là Túc Tôn lên ngôi kế vị, phong Quách Tử Nghi làm nguyên soái thống lãnh đại lịnh. Túc Tôn nghe Vĩnh Vương Lân có ý tạo phản bèn xuống chiếu sai Quách Tử Nghi đến vấn tội.
Khi ấy nội bộ của An Lộc Sơn bị nổi loạn : An Lộc Sơn bị đứa con trai giết đi để tiếm ngôi rồi chẳng bao lâu, đứa con trai của An Lộc Sơn lại bị một tên cận thần phản phúc giết đi để đoạt quyền; do đó, chỉ trong một thời gian ngắn bọn loạn quân này tan rã, và nhà Đường thu lại được cả hai tỉnh.
Được rảnh tay, Quách Tử Nghi đem quân đánh Vĩnh Vương Lân. Tên phản phúc này bị cô thế bỏ trốn, bị một tên quân canh bắt được giải đến viên môn.
Còn Lý Bạch thì gặp lại được Quách Tử Nghi, đưa Lý Bạch về triều tâu cùng vua Túc Tôn, nói rõ tài năng lỗi lạc của Lý Bạch và xin Túc Tôn trọng dụng.
Túc Tôn liền xuống chiếu phong cho Lý Bạch làm Tã thập di, nhưng Lý Bạch một mực từ chối không nhận.
Từ đó, Lý Bạch một thuyền một lá, thửng thờ sớm bãi chiều gành, rồi đến Kim Lăng, than thở cho những sự phế hưng diễn biến không ngừng :
“Trùng thu viễn cận thiên quan chủng, hòa thử cao đê lục đại cung”.
Trong óc nhà thơ say ấy có những mối cảm hoài gì trong thế sự ?
Một đêm, khi thả thuyền đến ven sông Thái Thạch, trăng tỏ sao thưa gió hòa nhè nhẹ, vàng trăng lơ lửng trên không như gieo vào lòng người một mối vô tư, xóa nhòa những cái gì còn nặng vấn vương trong trần tục, Lý Bạch đắm mình trong khung cảnh ấy, ngồi trầm lặng nơi đầu thuyền, uống rượu, uống cả vừng trăng, “rượu say, say cả vừng trăng dịu hiền”.
Vừng trăng rung rinh đáy nước, rung rinh trong lòng chén, thấm sâu vào tiềm thức siêu thần, Lý Bạch thấy mỗi sợi tóc mình biến thành một vành trăng ngời ngợi sáng… trong phút mê ly, Lý Bạch nhảy xuống dòng sông, ôm mảnh trăng rung rinh tan vở… để trở về nơi cảnh tiên bồng…
Thôi thế là hết một đời tài hoa trên trần tục.
Bạch ra đi… đi mãi không bao giờ còn trở về với Hứa phu nhơn nữa.
Từ đấy Hứa phu nhơn thẩn thơ với gió sớm mây chiều, ôm nửa vầng trăng vạn thuở mà nằm mơ trong giấc mộng hồn…
Nguồn: Chuyện Trung Hoa.
Post: TQS, 14.7.2013

10 thg 7, 2013

Cái tài giắt lưng

Tài năng, đó là một cái vốn. Cái vốn trời cho. Chẳng phải tôi nghĩ ra điều này, mà là anh nho sinh Nguyễn Công Trứ cách nay gần hai trăm năm. Chàng Trứ rất tự tin: "Trời đất cho ta một cái tài / Dắt lưng dành để tháng ngày chơi". Thế nghĩa là ta có một cái vốn, vốn này không phải tiền bạc. Tiền bạc thì con người cố sẽ kiếm được, nhiều nữa là khác. Vốn này là cái tài, mà tài thì của trời cho, nên chi đừng cạnh tranh, so bì hơn thiệt. Bất tài là do trời không cho. Ta được trời cho tài tức thị là trời cho ta một cái vốn, nó vô hình, không cân đong đo đếm cụ thể được, không sờ mó trông thấy nhãn tiền được, nhưng mà nó có thực. Ta mang nó trong người như dắt đồng vốn ở lưng quần túi áo, khi nào cần thi thố với đời thì ta lấy ra dùngAnh nho sinh Nguyễn Công Trứ tuổi đã luống mới thi đậu cửa Khổng sân Trình, rồi ra làm quan, đường hoạn lộ cũng mấy phen thăng trầm, trầy trật, khi lên thượng thư khi xuống lính trơn, nhưng ông vẫn "được mất dương dương người tái thượng / khen chê phơi phới ngọn đông phong", ấy là vì ông có tài và thị tài. Vua chúa biết đến tài ta mà dùng ta thì lợi cho nước cho vua, bằng không biết không dùng thì chỉ thiệt vua thiệt nước. Nói như Lý Bạch nghìn năm trước, "thiên sinh hữu tài tất hữu dụng" (trời sinh ta có tài thì ắt phải cho có lúc dùng). Nguyễn Công Trứ sống thời phong kiến, luân lý Khổng Mạnh còn đè nặng  và chi phối mạnh mọi ứng xử của con người trong cuộc sông, trật tự xã hội vua quan nhiều cách bức nặng nề, nhưng ở thời ông cái tài của cá nhân đã  bước đầu được bộc lộ, được bày tỏ và được thi thố. Nào, cùng đọc lại cả bài thơ rất dõng dạc, hiên ngang của Uy Viễn tướng công khoe cái tài, tự hào về cái tài trời đã cho mình.

Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
Đàn còn phiếm trúc tính tình đây
Ai say, ai tỉnh, ai thua được
Ta mặc ta mà ai mặc ai

Ghê chưa, hai câu cuối bài thơ, rõ là một người lớn tài nên lớn tiếng. Hãy chú ý câu thơ thứ hai "giắt lưng dành để tháng ngày chơi". Làm việc đã phải cần tài năng, nhưng chơi cho ra chơi, chơi cho có lịch có lề, thì cũng phải có tài mới chơi được. Tài năng cho phép ta làm được những việc lớn và do đó cũng cho phép ta biết sống một cuộc sống vui chơi có văn hóa, có hiệu quả, có bản lĩnh. Ai đã từng đọc về cuộc đời và sự nghiệp cụ Thượng Trứ hẳn đều thấy cụ nói được và làm được, cụ đã sống được một cuộc sống gần theo ý mình, mặc cho vòng kiềm tỏa nghiệt ngã của một xã hội không dung túng cá tính, cá nhân, cho dù đã có phần phải nới lỏng do những biến thiên của lịch sử.
          Nói ra chuyện Nguyễn Công Trứ của hai thế kỷ trước cũng là để nói chuyện hôm nay. Tài năng là của hiếm, mà đã hiếm thì khó thấy, khi thấy rồi mà không biết nâng niu, giữ gìn, phát huy thì nó cũng mất. Bởi vì cái tài, người tài thường là ở ngoài khuôn khổ, ít nằm vừa trong những chuẩn mực thông thường, ít chiều lòng những lẽ phải quen thuộc, do đó thường gây khó chịu cho những ai tiếp xúc với nó, đo lường nó theo những định mức bình thường. Cùng thời với Nguyễn Công Trứ có Cao Bá Quát. Ông Quát có tài, điều này ai cũng biết, cũng thừa nhận. Tương truyền ông nói thiên hạ có ba bồ chữ thì hai anh em nhà ông đã chiếm hai bồ. Tương truyền vua Tự Đức đã khen ông hết mức: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán / Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Tương truyền ông bịt mũi chê thơ của nhóm thi xã do ông hoàng Miên Thẩm Tùng Thiện Vương đứng đầu "Ngán cho cái mũi vô duyên / Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An". Cái tài vượt trội về văn thơ cộng với tính cách tự tin, ngạo đời của Cao Bá Quát đã thách thức những lề lối, chuẩn mực của một nhà nước chỉ trọng phép tắc trường quy và thích chạy theo hư danh. Ông không được nhìn nhận đúng năng lực của mình. Ông bị ràng buộc, kìm hãm ở những công việc không xứng với tài mình, không cần đến tài mình. Và Cao Bá Quát đã bị lâm tình thế bi kịch của một người trí thức, một người tài bị bật ra khỏi khuôn khổ của cái xã hội không dung chứa nổi mình. Như đôi câu đối ông vịnh Thánh Gióng: "Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn / Đằng vân do hận cửu thiên đê" ("Đánh giặc còn cho tuổi lên ba là muộn / Bay lên mây vẫn hận chín tầng trời là thấp").
          Thời nào cũng vậy, người tài chỉ cần được biết đến, được trọng dụng, để có thể đem cái tài mình có - cái vốn trời cho ra thi thố với đời, làm lợi cho mọi người, làm giàu đẹp thêm cuộc sống. Tài năng thuộc trời, nhưng môi trường cho tài năng phát triển lại là thuộc người. Người có thể làm mai một cái tài, lại cũng có thể làm cái tài được nẩy nở, sinh sôi. Chuyện đối đãi vật chất với tài năng chưa phải là cái chính, mà quan trọng nhất là sự đối xử tinh thần với những người có tài, mang tài. Trong lịch sử không hiếm những ông vua ban chiếu cầu hiền cầu tài những mong kiếm được người giỏi giúp đỡ giang sơn xã tắc. Nhưng giữa chiếu ban ra và việc thi hành chiếu nhiều khi lại trật khớp, lại tréo ngoe, khiến lòng có thành mà tâm không động, ý có thực mà việc không thành. Mới hay, tìm được tài đã khó, dùng được tài và làm cho tài được dùng lại càng khó hơn. Điều này đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải có khả năng nhìn người, có tầm nhìn xa trông rộng, và phải biết tạo ra một hệ thống vận hành để người tài không bị lệ thuộc quá nhiều vào những lề luật thói quen vốn là cái khung giữ cho một trật tự ổn định hơn là vận động đi tới.
          Năm nay là Tân Mão, năm con Mèo. Nguyễn Công Trứ đã dốc hết tài năng của mình phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn ở thời ông. Ông rất tự hào, phấn chấn với cái tài của mình và với những việc ông đã làm được nhờ cái tài đó. Nhưng cuộc đời điên đảo, thế sự đảo điên, khiến ông có lúc cũng cay đắng ngậm ngùi cho thân phận mình. Ông tự ví mình như ngựa, đối lập với những kẻ như mèo: Con mèo nằm bếp co ro / Ít ăn thì lại ít lo ít làm / Con ngựa đi Bắc về Nam / Hay ăn thì lại hay làm hay lo. Rốt cục, ông ước mình thành "cây thông đứng giữa trời mà reo". Thông có cốt cách, bản lĩnh của thông. Nguyễn Công Trứ mang cái tài giắt lưng muốn làm thông là ý trách đời "kiếp sau xin chớ làm người".
          Ngẫm ra, phải là người tài mới có nỗi ngậm ngùi ấy.

Hà Nội đông 2010
(Tuổi Trẻ số tết Tân Mão 2011)
Trackback URL: http://www.vnweblogs.com/trackback.php?id=278825

[1]
Kính Bác Nguyên
Tôi cũng hay đọc blog của Bác.
Báo xuân thì họa hoàn mới lướt qua.
Hôm nay mùng 5 tết nhân đọc được bài viết này của Bác lòng thấy vui vui…vì Bác đã dùng một bài thơ của Cụ Nguyễn Công Trứ làm background…mà tôi thì cũng rất mê thơ Cụ…
Nên mạo muội xin mượn đất của Bác để ghi lại một bài viết mà tôi đã “ngẫu hứng” từ cuối năm 2008 cũng là lạm bàn thô thiển về một cái tài khác của Cụ Nguyễn Công Trứ.
Cũng chỉ là có ý góp vui mà thôi.
Nếu có gì phật lòng, kính mong Bác lượng thứ.
Tao…mi…
“Tao ở nhà tao tao nhớ mi
Nhớ mi nên phảI bước chân đi
Không đi mi nói rằng không đến
Đến rồi mi nói đến làm chi”
Thất ngôn tứ tuyệt thì đúng rồi. Mà lại chữ Nôm chứ chẳng phải chữ Hán.Rất dễ nghe nhưng chưa chắc dễ hiểu.Là thơ tình hay tự cảm thán, sao chữ nghĩa quá ư đơn giản…
Cái cách xưng hô ngay đầu câu “Tao…mi…”, nửa như nghiêm nửa như bỡn, nửa gần gũi nửa xa xôi. Chỉ có thể thấy cách dụng từ như vậy ở một người cao tuổi, quyền thế nói với một ngườI nhỏ tuổi, kém thế hơn mình nhiều, Cứ như Lão gia nói chuyện với con sen ở xứ ta đó mà…nhưng mà thương, thương lắm.
Nên “Tao ở nhà tao tao nhớ mi”, cái chữ “mi” ở một số vùng miền Trung nước ta là từ để gọi, để nói với môt người mà mình rất thân thương, rất quan tâm…Vây thì đích thị câu mở đầu là một lời nhắn gởi đầy yêu thương nhớ nhung của một Lão gia với một cô bé tình nhân chắc chỉ độ mười tám đôi mươi.Chứ chẳng lẽ một ông già đi nhớ thương một mụ sồn sồn mà lại “tao với mi”…
Nỗi nhớ rất cồn cào da diết, không chịu được nữa nên mới phải “Nhớ mi nên phải bước chân đi”. Đúng là chỉ có thể nói về tình yêu mà thôi. Bởi khi đã yêu thì Cụ già bẩy, tám mươi cũng hệt như anh trai tơ vậy thôi. Sao mà ở nhà được, phải đi, đi để mà gặp gỡ, để cho vơi hết bao nỗi nhớ thương chứ…
Mà cái “con bé” này nó cũng tinh quái lắm, nó biết Cụ thương Cụ nhớ nó nhiều…nên đâm nó bỡn, nó lại còn dám trách ngược lại cơ đấy : “Không đi mi nói rằng không đến”…
Ái cha cha! Ở cái xứ Á Đông này mà nhất lại là An nam ta thì cái chuyện “trai năm thê bẩy thiếp” ở cái thuở chưa phải là xa xôi lắm là chuyện thường tình. Nhất là đối với các bậc đại trượng phu, quyền thế đầy mình thì cứ thích em nào thời em đó đố mà chạy thóat. Nhưng mà ở đây rõ ràng là có cái tình đàng hòang, có vẻ chân chính lắm (không ép buộc mà là tình tự nguyện vì mến tài mộ đức hẳn hoi). Nên con bé cũng ở nhà nó mà cũng nhớ cũng mong nên mới hờn mới trách sao Cụ không đến ? Thật là rất thi vị cho dù tuổi tác có so le..
Đấy thế là Cụ cứ phải đến nhà “mi”. Mà nghĩ cũng tội, Cụ đã đến rồi, con bé lại chưa chịu bày “rượu nồng, thịt béo, gái tơ” ra hầu Cụ (gái tơ thì đích thị là mi rồi chứ còn ai vào đây nữa), nó lại còn dấm dẳn, nhõng nhẽo Cụ bằng câu hỏi rất ư là ngơ ngác cừu non : “…đến làm chi”…
Thế nhưng chính cái lối vừa như lẳng vừa như thơ dại, cứ tròn xoe đôi mắt ra mà hỏi, ra cái điều thiếp còn ngây ngô lắm…nhưng chắc cũng là con nhà có chút chữ lận lưng để mà còn vừa chuốc rượu vừa đối đáp và biết khen cả thơ của Cụ hay…thì mới khiến Cụ mê mệt được chứ…Cho nên dù mi có hơi hỗn, có dám bỡn cợt thì cụ đây vẫn cứ yêu chiều thương nhớ. Ra cái điều “trai tài sánh gái thuyền quyên” chứ lỵ.Để khi tàn rượu, vơi nỗI khát khao, trở về nhà Cụ lại :
“Tao ở nhà tao tao nhớ mi…”
Đọc bài thơ trên thì chắc ai cũng biết đó là bài “Bỡn nhân tình” của Uy Viễn Tướng quân Nguyễn Công Trứ. Vâng! Chính là Cụ Trứ đa tài và đa tình đấy. Một con ngườI biết sống đúng nghĩa, khi làm thì làm hết mình hết sức nhưng khi chơi thì cũng cực kỳ phong lưu, đài các.Thế cho nên chỉ vớI một khổ thơ ngắn bằng tiếng Nôm, Cụ đã kể cho ta về cái tình của mình, cái tình như đùa như bỡn nhưng chẳng vướng danh lợi nhục vinh, chỉ là cho thỏa cái sự hòa hợp âm dương muôn đời muôn kiếp của giống người…Mà đôi khi có kẻ còn lợi dụng để cầu vinh hoa phú quý hay như cũng có kẻ chối bỏ không dám nhắc tới chỉ vì sợ làm xấu cái hình ảnh của mình đi…
Sách sử nói Cụ Nguyễn Công Trứ mất năm 80 tuổi, kẻ hậu sinh đồ rằng chắc Cụ đã có để lại cho người con gái được Cụ yêu chiều đó một khổ thơ cuối cùng để “mi” mãi mãi nhớ đến “Tao” – nhớ đến cái tài hoa của một “Trai tài” mà ngay cả các cô nường đương xuân ngày nay nếu chịu khó trau dồi kiến thức thay vì túm tụm nhau đi khoe “vú đít” trong các cuộc thi hoa hậu dấm dớ cũng vẫn sẳn lòng yêu lắm lắm :
“Tao đi xa rồi mi ở lại
Nói hờn nói bỡn chỉ mình mi
Nếu có nhớ Tao mi đừng khóc
Cứ đọc thơ Tao thế mới chì”
(Mà cô bé này chì thật …nên Cụ Nguyễn mới hạ bút đề thơ chứ…)
Những ngày cuối tháng12 năm 2008
anhcasg. TQS post ngày 10.7.2013