30 thg 10, 2015

Đăng bởi Trung Lập on Thứ Ba, ngày 27 tháng 10 năm 2015 | 27.10.15

Trong giới Hán học Trung Quốc và Việt Nam khá phổ biến ý kiến khẳng định rằng ngay từ cuối đời Tần (cuối thế kỷ thứ III TCN) chữ Hán đã bắt đầu được truyền vào Bắc bộ Việt Nam. Căn cứ duy nhất của họ là đoạn ghi trong Sử ký Tư Mã Thiên: “Năm 33 (tức 214 TCN – V.T.K.) Tần Thuỷ Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải; cho những người đi đày đến đấy canh giữ”. Cũng dựa vào đoạn ghi chép đó, PGS Trần Nghĩa (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) cho rằng những người bị đi đày này “… nghiễm nhiên trở thành những sứ giả chở chữ Hán và tiếng Hán tới phương Nam”.

chinese-charactersSử ký Tư Mã Thiên là bộ sử liệu vĩ đại đáng tin cậy, nhưng từ một đoạn ghi chép trên mà suy luận rằng chẳng những tiếng mà cả chữ Hán được truyền đến Bắc bộ Việt Nam cùng đạo quân viễn chinh nhà Tần thì e chỉ là võ đoán. Vì vấn đề lại có ý nghĩa nguyên tắc từ góc độ giao lưu văn hoá Trung-Việt, nên cuối năm 2003, tại “Hội thảo quốc tế về truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt”, họp ở Thâm Quyến 19-21/12/2003, chúng tôi đã dành nửa đầu của báo cáo để đặt lại vấn đề với 2 ý kiến tranh luận, đó là:

1. Cùng với cuộc viễn chinh của quân Tần, bất quá mới chỉ có sự lan truyền tự nhiên (không thể gọi là truyền bá!) khẩu ngữ (tức tiếng Hán), thường song hành với mọi cuộc xâm lấn và di dân, chứ chưa thể có chuyện truyền bá chữ Hán;

2. Chỉ sau khi Triệu Đà, Huyện lệnh Long Xuyên quận Nam Hải, lợi dụng thời cơ nhà Tần sụp đổ, năm 207 chiếm lĩnh 2 quận Quế Lâm và Tượng Quận, thiết lập vương triều cát cứ Nam Việt quốc (207-111 TCN), 18 năm sau thôn tính nốt nước Âu Lạc (208-179 TCN) của An Dương Vương, chữ Hán mới thực sự được truyền bá, tức được dạy một cách có chủ định ở vùng đất Bắc bộ và bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay .

Chứng minh ý kiến thứ nhất, chúng tôi biện luận như sau:

Theo chính Hán thư thì Tượng Quận không phải là Bắc bộ Việt Nam mà là vùng đất phía tây của Quảng Tây và phía nam của Quý Châu, như vậy thì trong cuộc viễn chinh vào miền đất Lĩnh Nam của Bách Việt, quân Tần mới chỉ đánh chiếm được vùng đất của Mân Việt (Phúc Kiến, Quảng Đông), Dương Việt và Tây Âu Việt (Quảng Tây và một phần Quý Châu), nhưng chưa chiếm cứ được đất Lạc Việt (tức nước Âu Lạc của An Dương Vương).

Một sử liệu đáng tin cậy khác là bức thư của Hoài Nam Vương Lưu An dâng lên can gián Hán Vũ Đế (140-86 trước CN) đem quân vào đất Việt, đã miêu tả quân Tần từng bị khốn đốn ở đất Việt (Lạc Việt? – V.T.K.) như sau: “Đời Tần sai quan uý Đồ Thư đánh đất Việt, người Việt trốn vào rừng núi, đánh không được, đóng quân ở vùng đất trống không, lâu ngày quân lính mệt mỏi, rồi người Việt ra đánh, quân lính Tần đại bại” . Sách Hoài Nam tử, cũng do chính Lưu An biên soạn, tả cảnh bại trận của quân Tần còn thê thảm hơn: “Trong 3 năm không cởi giáp dãn nỏ… Người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư, thây phơi huyết chảy hàng mấy chục vạn người”.

Năm 214 mới chiếm được vùng Lĩnh Nam, đến đất Việt 3 năm chiến đấu liên miên (“không cởi giáp dãn nỏ”), bị thảm bại (chủ tướng bị giết, sĩ tốt thì phơi thây); 8 năm sau, 206, nhà Tần đã diệt vong, vậy thời gian đâu mà truyền bá chữ Hán?

Nêu ý kiến chữ Hán chỉ bắt đầu được truyền bá (được dạy và học có chủ định) từ vương triều của Triệu Đà, chúng tôi căn cứ 2 sự kiện có trong sử sách Trung Hoa và Việt Nam, đó là:

a) sử gia Việt Nam dẫn sách Thuỷ kinh chú của Trung Hoa, khẳng định rằng dưới triều đại Nam Việt quốc các Lạc tướng của Hùng Vương vẫn cai trị dân như cũ, tức Triệu Đà chủ trương sử dụng các hào trưởng người Việt có uy tín và lực lượng, lại thông hiểu ngôn ngữ và phong tục tập quán địa phương, để quản lý dân Lạc Việt; vậy thì để thông đạt các chiếu chỉ, mệnh lệnh, tất nhiên nhà Triệu phải tổ chức dạy cho họ chí ít biết đọc và viết được chữ Hán, tức là đến thời điểm ấy mới nảy sinh nhu cầu khách quan về một văn tự làm công cụ cho hệ thống hành chính thống nhất bao gồm người Hoa (ở triều đình trung ương) và người Việt (ở phủ, huyện, làng xã).

b) Triệu Đà, để tranh thủ hậu thuẫn của người Việt nhằm xưng đế, cát cứ một phương, độc lập với đế quốc Hán, đã chủ trương dung hợp văn hoá Hoa – Việt, tạo ra những dòng họ hỗn huyết Hoa-Việt và dung hợp tự nhiên hai văn hoá Hoa và Việt.

Sự kiện thứ hai này là nhân tố thuận lợi thúc đẩy việc bắt đầu truyền bá chữ Hán vào đến tận làng xã, chúng tôi đã cố gắng chứng minh chi tiết hơn như sau:

Triệu Đà vốn người Hán ở đất Chân Định, nay thuộc tỉnh Hà Bắc-Trung Quốc, cho Trọng Thuỷ cầu hôn Mỵ Châu đương nhiên nhằm mục đích thôn tính Âu Lạc. Nhưng sau khi đã tiêu diệt triều đình An Dương Vương, theo Sử ký Tư Mã Thiên, Triệu Đà tiếp tục chủ trương đó: dùng Lữ Gia mà chính Sử ký Tư Mã Thiên gọi là “Việt nhân” (đúng hơn phải nói là người Hán đã Việt hoá do sống giữa cộng đồng người Việt, cũng như Lý (Bôn) Nam Đế – V.T.K.) và ghi nhận Gia “làm Thừa tướng 3 đời vua… Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất của vua…; ở trong nước rất được tôn trọng, người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông, ông được lòng dân hơn vương”. Chẳng những thế, bản thân Đà đã chủ động thích ứng với phong tục, tập quán của người Việt: trong thư dâng Hán Văn Đế (179-156 trước CN) ông viết: “Lão phu ở đất Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu”. Thâm ý của câu đó, họ Triệu khi tiếp sứ thần nhà Hán là Lục Giả, đã giải thích khá cụ thể bằng hành động “xoã tóc, ngồi chò hõ (tức ngổi xổm, chồm hỗm theo phong tục người Việt, chứ không búi tóc, ngồi quỳ gối theo nghi lễ Trung Hoa – V.T.K.) mà tiếp” và cũng khá thẳng thừng đáp lại lời Giả trách Đà “phản thiên tính” (tức quên phong tục mẹ đẻ là người Hán!): “Tôi ở trong xứ mọi rợ lâu ngày, quên hết lễ nghĩa rồi” (tức không theo lễ nghi của người Hán nữa!). Có thể nói rằng họ Triệu và họ Lữ (Lã) là những đại biểu sớm nhất của các dòng họ cổ đại hoà trộn hai huyết thống Việt và Hoa được sử sách ghi lại, tức cũng xác nhận vào thời điểm đó mới bắt đầu hình thành nhân tố thuận lợi thúc đẩy sự truyền bá chữ Hán và giao lưu văn hoá Trung-Việt.

Việc Triệu Đà chủ trương dung hợp hai nền văn hoá Hoa và Việt, gần đây được chính một số học giả Trung Quốc khẳng định. Sau khi tham dự Hội thảo Thâm Quyến, trên đường về qua Quảng Châu, nhân ghé thăm khu mộ của cháu Triệu Đà là Văn Vương Triệu Muội, chúng tôi mua được sách Lĩnh Nam chi quang, miêu tả việc khai quật khu mộ đá này năm 1983. Các tác giả sách viết: Triệu Đà … “thúc đẩy chính sách dân tộc “hoà tập Bách Việt”, xúc tiến quá trình dung hợp dân tộc Hán – Việt và phát triển kinh tế – văn hoá” .

Khách quan mà nói, quan điểm về sự dung hợp hai nền văn hoá Việt và Hoa dưới triều đại Triệu Đà trong toàn cõi Nam Việt quốc đã từng được một số nhà sử học Sài Gòn nêu lên khá sớm, nhưng đúng như nhà sử học Đào Hùng, Phó tổng biên tập báo Xưa & Nay, nhận định trong Lời giới thiệu công trình cực kỳ lý thú của nghiên cứu sinh tiến sĩ năm thứ nhất Đại học Văn khoa Sài Gòn Tạ Chí Đại Trường, xuất bản năm 1989 tại Hoa Kỳ, đến đầu năm 2006 này mới được in lại ở Việt Nam, nhan đề Thần, người và đất Việt: “Trải qua một thời gian dài giới nghiên cứu chúng ta thường bị những động cơ chính trị chi phối nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiên kiến”. Có thể nói một trong những thiên kiến như vậy là quan điểm chính thống trong giới sử học miền Bắc coi nhà Triệu là kẻ xâm lược, mà đã là kẻ xâm lược thì phải xấu, không thể có đóng góp gì đáng bàn nữa! Trong công trình nói trên, với một phương pháp nghiên cứu khách quan, không bị lập trường chính trị o ép, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường xuất phát từ luận điểm về sự liên tục văn hoá và căn cứ thực tế lịch sử về giao lưu văn hoá của cộng đồng người Việt với Hán, Chămpa và các tộc người khác, đã phát biểu những ý kiến xác đáng, nêu một nhận xét táo bạo, nhưng theo chúng tôi, không phải không có lý, rằng: “Ranh giới Giao [tức Giao Chỉ] – Quảng [tức Quảng Đông, Quảng Tây] còn nhập nhoà trong trận chiến Lý-Tống (1075-1077) khi Lý đem quân qua châu Khâm, châu Liêm có người giúp đỡ, nội ứng…”, tức theo ông, trải qua hơn nghìn năm vẫn tồn tại những truyền thống bắt nguồn từ sự dung hợp văn hoá Hoa và Việt từ thời Triệu Đà khiến ít ra một bộ phận dân chúng vùng Lưỡng Quảng không hề mặc cảm đạo quân viễn chinh của Đại Việt là những kẻ dị chủng xâm lược.

Bốn chục năm trước đây, khoảng năm 1962/63, chúng tôi từng được nghe một vị sư già ở chùa Thầy nói xương cốt dưới hang chùa là của binh lính Lữ Gia không chịu ra đầu hàng, bị quân Hán vây đến chết đói ở dưới đó. Ngay ở Hà Nội cho đến năm 1979 vẫn còn phố Lữ Gia (nay là phố Lê Ngọc Hân). Tại một số địa phương trên đất Việt Nam ngày nay dân chúng vẫn thờ Triệu Đà và Lữ Gia. Chẳng hạn, ở làng Đồng Xâm xã Hồng Thái huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình vẫn còn di tích một đền lớn uy nghi, được xếp hạng như di tích thờ vị Tổ nghề chạm bạc truyền thống. Thực ra, Tổ nghề Nguyễn Kim Lâu chỉ được thờ trong một cái am nhỏ ở địa điểm khác. Đây cũng lại là một bằng chứng về cái sự “bị động cơ chính trị chi phối”, khiến người ta phải làm sai lệch sự thật về ngôi đền này, bất chấp thư tịch lịch sử và địa chí. Danh sĩ cuối đời Lê là Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780) viết rành rành trong công trình nổi tiếng Việt sử tiêu án: “… làng Đường Xâm quận Giao Chỉ (nay là Đường Xâm huyện Chân Định) có miếu thờ Triệu Đà…” Huyện Chân Định sang triều Nguyễn thuộc phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, đến năm 1894, phủ Kiến Xương cắt về tỉnh Thái Bình mới lập, sau bỏ phủ, đổi gọi là huyện Kiến Xương. Năm 1924 nhà địa dư học Ngô Vi Liễn còn ghi ở chương “Tỉnh Thái Bình” trong sách Địa dư các tỉnh Bắc kỳ : “Đền Triệu Vũ Đế ở làng Thượng Gia, phủ Kiến Xương, hội về ngày mồng 1 tháng tư”). Cũng sách của Ngô Vi Liễn cho biết: làng Thượng Gia thuộc tổng Đồng Xâm (sách đời Nguyễn Gia Long còn gọi là tổng Đường Xâm).

Tâm thức dân Việt không phải ngẫu nhiên vẫn tôn thờ Triệu Đà. Ngoài công “hoà tập Bách Việt”, phát triển kinh tế và văn hoá, biến cả miền Lĩnh Nam thành ánh hào quang (=Lĩnh nam chi quang), họ Triệu đã Việt hoá từng cùng dân Việt chống ngoại xâm. Sử ký Tư Mã Thiên viết rằng thời Triệu Minh Vương (chắt của Triệu Đà) con là thái tử Anh Tề phải vào làm con tin tại triều đình nhà Hán, lấy gái Hán ở Hàm Đan họ Cù, đẻ ra con trai là Hưng, sau được nối ngôi, nên Cù thị trở thành thái hậu Nam Việt quốc; hồi còn trên đất Trung Quốc, đã là vợ Anh Tề, Cù thị vẫn dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý, nay thấy Thiếu Quý sang làm sứ giả, lại cùng gian dâm, rồi khuyên vua quan Nam Việt xin “nội thuộc” nhà Hán… “bọn Lữ Gia bèn làm phản, ra lệnh trong nước: “Vương tuổi còn trẻ, thái hậu là người Trung Quốc, lại dan díu với sứ giả, chỉ muốn nội thuộc…”. Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán…; lập Vệ Dương hầu Kiến Đức, người con trai đầu của Minh Vương, vợ (Đại Việt sử ký toàn thư ghi “mẹ” – V.T.K.) là người Việt, làm vua…, đem quân đánh bọn Thiên Thu (tướng nhà Hán), diệt được họ cách Phiên Ngung (nay là Quảng Châu) 40 dặm. Gia sai người phong gói cờ tiết của sứ giả để ở cửa ải, khéo nói dối để tạ tội, rồi đem quân đóng giữ những nơi hiểm yếu” (chúng tôi nhấn mạnh – V.T.K.) .

Rõ ràng vương triều họ Triệu cùng vị Thừa tướng “Việt nhân”, “được lòng dân hơn vương”, là những người đầu tiên , trước Hai Bà Trưng cả 144 năm, đã chống quân xâm lược nhà Hán. Cuộc kháng chiến của họ dẫu được dân Việt ủng hộ, vẫn thất bại do tương quan lực lượng quá chênh lệch ở thời buổi nhà Hán vừa mới diệt Tần lên làm chủ Trung Hoa, đang trở thành một đế chế hùng mạnh. Nhưng cũng như một người xưa, Tiến sĩ Vũ Tông Phan, đã viết về Hai Bà Trưng trên tấm bia lập năm 1840, hiện vẫn dựng giữa sân đền thờ Hai Bà ở Đồng Nhân-Hà Nội: “Việc làm của kẻ trượng phu không thể lấy thành hay bại mà bàn luận” .

Sử sách nước ta qua các thời đại khác nhau có quan điểm khác nhau về vương triều Nam Việt.Đại Việt sử lược, bộ sử thời Lý-Trần (TK XII-XIII) chép “Nhà Triệu” ngang hàng với các “Nhà” Ngô, Đinh, Lê (Đại Hành), Lý. An Nam chí lược (đầu TK XIV), do Lê Tắc viết trên đất Trung Quốc nên không dám dùng chữ “kỷ” mà Tư Mã Thiên chỉ dành riêng cho các triều đại hoàng đế Trung Hoa, gọi Triệu là “thế gia” (“Triệu thị thế gia”) ngang hàng các “thế gia” Đinh, Lê, Lý, tức vẫn coi là một triều đại thuộc sử Đại Việt. Nguyễn Trãi coi quốc thống Đại Việt trước nhà Lê gồm cả Triệu, Đinh, Lý, Trần. Trong Bình Ngô đại cáo năm 1427 ông tuyên bố:

Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến.
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước.
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.

Theo tinh thần đó Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Triệu như một triều đại chính thống của Đại Việt. Đến cuối thế kỷ XVIII, Việt sử tiêu án và Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ phê phán chép sử Việt như thế là sai và đưa nhà Triệu ra ngoài, gọi riêng là “ngoại thuộc”, để phân biệt với giai đoạn “Bắc thuộc” sau này, khi nước ta “nội thuộc” Trung Quốc. Quốc sử quán triều Nguyễn theo như thế, có lẽ còn vì lý do năm 1804 vua Gia Long xin đặt quốc hiệu là “Nam Việt”, nhưng hoàng đế nhà Thanh không chuẩn cho, hẳn e ngại sự tái diễn việc cầu hôn một công chúa Trung Hoa và xin lại đất Lưỡng Quảng mà Quang Trung đã đặt ra. Để rạch ròi, triều Thanh đề nghị quốc hiệu “Việt Nam”, nhưng vua Gia Long không chấp thuận, tự đặt quốc hiệu là Đại Nam. Đến đầu thế kỷ XX, khi nước ta đã thành thuộc địa của Pháp, quyền uy Trung Hoa không còn tác dụng nữa, sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược (viết 1919, in 1921) mới lại đưa “nhà Triệu” vào quốc thống Đại Việt.

Nếu Quang Trung không mất sớm thì sẽ ra sao nhỉ?

Nhưng lịch sử không chấp nhận chữ “nếu”. Lịch sử đã an bài từ lâu. Ngày nay Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng hữu nghị, với biên giới đã xác định. Bởi vậy trong báo cáo tại Hội thảo Thâm Quyến 2003, chúng tôi đã nói rõ chỉ xem xét vương triều Triệu Đà thuần tuý từ góc độ giao lưu văn hoá. Nay xin một lần nữa nhấn mạnh như vậy.

Tác giả: Vũ Thế Khôi

Nguồn:  Tạp chí Xưa và Nay số 256 tháng 8/2006 & Talawas

(Nghiên Cứu Quốc Tế)

29 thg 10, 2015

Thời điểm bạn tuyệt đối nên đi ngủ

Tác giả: nhipsinhhoc.vn
.KD: Đọc được bài này trên FB Đức Bảo Phạm, thấy có ích quá, và cũng giật mình vì chắc có nhiều người giống mình, làm việc, nghỉ ngơi phi khoa học. Xin đăng lên để bạn đọc chia sẻ và tự chăm sóc sức khỏe bản thân, nhất là các cụ cao tuổi, để con cái đỡ phải lo lắng  :D
—————-
90% người dân không biết cách ngủ như thế nào là tốt! Nên ngủ thế nào để khi thức dậy bạn thấy tràn đầy năng lượng? Bạn có biết, một người chỉ cần ngủ hai giờ là đủ? Nếu thế bạn sẽ thắc mắc tại sao mọi người vẫn cảm thấy rằng phải ngủ 7 hay 8 tiếng một ngày? Thực ra đó chỉ là thói quen nghỉ ngơi được dưỡng thành từ nhỏ. Chúng ta không cần thời gian ngủ quá nhiều!
Thực tế cho thấy 3 phút ngủ thực sự chất lượng vào buổi trưa là bạn có thể tính táo như vừa ngủ được 2 giờ ở thời điểm khác, đặc biệt là đối với những người thực hành thiền định trong các môn phái khí công.
Xét về chất lượng giấc ngủ thì tại cung giờ Tý (23h đêm – 1h sáng), nếu bạn ngủ 5 phút là tương đương với 6h ngủ ở các giờ khác. Cung giờ 11h – 1h trưa cũng có hiệu quả tương tự. Như vậy, bạn nhất định nên ngủ vào giờ Tý. Cho dù bạn có việc phải thức khuya hoặc bị chứng mất ngủ thì bạn cũng nên cố gắng ngủ trong giờ đó, dù chỉ là 20 phút thì bạn cũng nhất định phải tự dỗ mình ngủ vào giờ đó.
Tương tự như nguyên lý chuyển động của vũ trụ, địa cầu, kinh dịch, nguyên lý cân bằng âm dương mà bạn có thể cảm nhận được một nguồn năng lượng chạy từ tim xuống vùng đan điền (nơi bụng dưới) khi bạn ngủ đúng và đủ giấc. Đó có thể gọi là “Thủy Hỏa đều được bồi bổ”, và bạn sẽ cảm thấy tinh thần phấn chấn gấp trăm lần.
9vi-sao-khi-ngu-nhieu-hon-thi-lai-met-hon-meo-ngu-5-phut-tuong-duong-voi-6h
Nếu bạn ngủ vào lúc trời gần sáng thì rất dễ bị váng đầu vào ngày hôm đó.Nếu sau 12h30 giờ đêm (giờ Tý) mà bạn vẫn chưa ngủ thì sẽ rất không tốt, và càng nghiêm trọng hơn nếu bạn vẫn thức cho đến 4-5 giờ sáng. Từ 5-6 giờ sáng là thời điểm bạn phải kết thúc giấc ngủ của mình. Nếu bạn lại cố ngủ bù vào lúc 5-6 giờ sáng bạn rất dễ bị váng đầu cả ngày hôm đó. Người thường phải thức đêm làm việc nên cố gắng ngủ vào giờ Tý, ít nhất là nửa giờ cho dù là việc đại sự gì cũng phải cố gắng ngủ.
Những người bị mất ngủ, đến 12h đêm vẫn chưa ngủ thường trằn trọc trên giường mãi không ngủ được, đến khi muốn ngủ thì trời đã sáng. Kết quả là đầu óc cứ bị mê muội đến tận chiều hôm sau. Những người bị mất ngủ và có cảm giác ngủ chưa đủ là bởi vì người đó thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về giấc ngủ.

Phương pháp ngủ

Giống như các quy tắc giao thông, người không hiểu về giấc ngủ rất dễ gặp các sự cố như trên. Bạn phải luôn nhớ rằng: Ngủ cũng có quy tắc. Từ 23h đến 3h sáng (giờ Tý và giờ Sửu) là lúc lá gan hoạt động mạnh nhất. Mật từ gan sẽ được tiết vào máu: “Nằm xuống thì máu chảy về gan, đứng dậy thì máu chảy đi”. Bạn nên bắt đầu đi nằm từ 22h, lặng lẽ không nói chuyện, giấc ngủ tự nhiên sẽ đến khoảng 23h.
Mật từ gan tiết vào máu, lọc bỏ chất độc, chất thải, làm cho huyết dịch trở nên tươi mới, trong sạch. Như thế đến 100 tuổi cũng không có bệnh viêm gan hay sỏi mật. Người phải thức đêm quá nhiều, mật từ gan sẽ không được đưa đủ vào máu, huyết dịch tự nhiên không được thải độc, không được làm sạch, mật trong gan cũng không cách gì dược tiết ra đều đặn. Dễ gây ra sỏi mật, u nang, viêm gan B đại tam dương (có 3 phản ứng dương tính trong 5 xét nghiệm viêm gan B) và viêm gan B tiểu tam dương (biến thể của đại tam dương).
Ở châu Âu, bình quân cứ 4 người thì có 1 người mắc bệnh về gan. Nguyên nhân của tình trạng này là vì chưa hiểu nguyên nhân và chưa biết cách ngủ đúng. Nửa giờ trước khi đi vào giấc ngủ, bạn không nên nói chuyện, vì khi nói chuyện, thì kinh động đến phổi, tiếp đến là tâm cũng bị kinh động dẫn đến trạng thái hưng phấn của não bộ, lúc đó bạn sẽ rất khó chìm vào giấc ngủ.

Giờ Hợi: 21:00 đến 23:00

9vi-sao-khi-ngu-nhieu-hon-thi-lai-met-hon-meo-ngu-5-phut-tuong-duong-voi-6h2
Ở cung giờ Hợi, ba kinh mạch chính của cơ thể hoạt động rất mạnh, làm thông hàng trăm kinh mạch khác (Đông y gọi ba kinh mạch này là tam tiêu, gồm thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu. Thượng tiêu là lưỡi, thực quản, tim phổi; trung tiêu là dạ dày; hạ tiêu là ruột non, ruột già, thận và bàng quang). Ngủ vào giờ Hợi thì trăm mạch đều được nhu dưỡng. Những người sống trăm tuổi thường có thói quen đi ngủ trước 21:00 giờ. Phụ nữ nếu muốn kéo dài tuổi thanh xuân thì nên đi ngủ sớm vào giờ Hợi.
Khi ngủ nên đóng cửa sổ, không bật quạt, không bật điều hòa, nếu không thì có thể phát sinh nhiều bệnh cho bản thân. Bởi vì khi người ta đang ngủ, khí huyết lưu thông chậm chạp, nhiệt độ cơ thể hạ thấp. Bề mặt mặt ngoài cơ thể sẽ hình thành một lớp khí dương bao bọc, tác dụng của lớp khí dương này có thể gọi là “Quỷ mị bất xâm”. Vì sao như thế? Là vì khi dương khí sung mãn khắp cơ thể, ngủ sẽ không gặp ác mộng, và không gì có thể xâm nhập.
Mở điều hòa không giống với bật quạt hay mở cửa. Mở cửa thì gió xâm nhập vào gân, nhưng nếu mở điều hòa thì hàn lạnh có thể xâm nhập vào tận xương. Kết quả là đến sáng tỉnh dậy thì mặt vàng, phía sau cổ cảm giác bị tê cứng, khớp xương đau nhức, thậm chí có người phát sốt. Đó gọi là phong hàn đã xâm nhập đến gân và xương khớp, làm cho khí trong cơ thể bị tổn thương. Hiệu quả tốt nhất khi ngủ là không mở điều hòa, không bật quạt, các cửa phòng đóng kín. Nếu thời tiết nóng thì có thể mở cửa chính khi ngủ, nhưng hiệu quả kém hơn một chút nhưng chắc chắn là không bị hiện tượng tê cứng cổ uể oải vào sáng hôm sau.
Bạn cố gắng đi ngủ sớm nhưng sau đó vẫn bắt đầu giấc ngủ muộn như thế có thể bị thiếu dương khí, sáng hôm sau nhất định là thấy mệt mỏi, vô lực.Có người mở điều hòa ở phòng khách rồi mở cửa phòng ngủ thì cũng không khác gì lắm so với việc mở điều hòa ở phòng ngủ. Mở điều hòa như thế thì hàn lạnh sẽ tiến nhập vào xương cốt cho nên trong người bị lạnh, trong xương tủy bị lạnh. Vậy thì bổi bổ dương khí như thế nào? Cần bổi bổ để trong xương tủy không còn lạnh, tăng hỏa khí để đẩy hàn ra ngoài và luôn nhớ rằng: ngủ cần đóng cửa, không mở điều hòa, không bật quạt để bảo hộ dương khí của cơ thể.
Lá gan bị bốc hỏa, hay dạ dày có vấn đề sẽ xuất hiện hiện tượng ngủ bất an. Nếu là dạ dày bị hàn thì người đó thiếu dương khí, hoặc do uống nhiều trà xanh. Dạ dày bị hàn làm người ta ngủ không ngon giấc. Trường hợp dạ dày bị nhiệt nóng, nhiệt bốc lên làm cho miệng thở gấp, như thế người ta cũng ngủ không ngon giấc. Một trường hợp khác nữa là dạ dày bị khô, thiếu nước (táo), như thế sẽ làm cho miệng lưỡi khô ráp, háo nước.
9vi-sao-khi-ngu-nhieu-hon-thi-lai-met-hon-meo-ngu-5-phut-tuong-duong-voi-6h3
Nếu dạ dày bị đầy khí hư, bụng sẽ trướng, như thế cũng làm cho ngủ không ngon. Các tình huống liên quan đến khí trong dạ dày gây cảm giác chán ăn. Có người ăn quá nhiều hải sản, cá, gà làm cho dạ dày bị quá tải, không thể tiêu hóa hết cho nên ngủ cũng không ngon giấc. Nó làm cho bụng trướng, phình, bạn sẽ lật đi lật lại mãi nhưng không ngủ được. Nếu dạ dày của bạn có quá nhiều khí hư, người sẽ đổ mồ hôi lạnh và ngủ cũng không ngon. Những nguyên nhân từ dạ dày như thế làm cho giấc ngủ của bạn không ngon.
Lúc ngủ tứ chi cần được giữ ấm Bởi vì tứ chi là thuộc dương như mọi người đã biết. Tứ chi không ấm thì nhất định là thận dương hao tổn. Rất tốt nếu trước khi ngủ bạn ủ ấm được tay chân, rốn và cả vị trí Hội Âm (giữa hậu môn và bộ phận tiểu tiện).

Phương pháp ngủ thì có thể tùy từng người để áp dụng. Dưới đây giới thiệu 3 phương pháp để có giấc ngủ ngon

1) Ngồi xếp bằng trước khi ngủ

9vi-sao-khi-ngu-nhieu-hon-thi-lai-met-hon-meo-ngu-5-phut-tuong-duong-voi-6h4
Ngồi xếp bằng tự nhiên trên giường, hai tay xếp chồng lên nhau để nhẹ trên đùi, hít thở tự nhiên, cảm nhận các lỗ chân lông hô hấp theo từng nhịp từng nhịp nhẹ nhàng. Khi thấy ngáp chảy nước mắt là đã đạt hiệu quả tốt nhất, lúc đó chỉ cần ngả lưng xuống liền có thể ngủ.

2) Nằm ngửa, hít thở tự nhiên, cảm giác hơi thở như gió xuân

9vi-sao-khi-ngu-nhieu-hon-thi-lai-met-hon-meo-ngu-5-phut-tuong-duong-voi-6h5
Xoa bóp ngón chân cái rồi lần lượt xoa bóp các ngón chân khác cho đến khi thấy nóng (hòa tan), xoa bóp lên bắp chân, đùi. Nếu hết một lượt mà vẫn còn tình táo thì quay lại xoa bóp các lượt tiếp theo, làm cho đến lúc thấy buồn ngủ.

3) Nằm nghiêng bên phải, tay phải nắm tai phải để chìm vào giấc ngủ nhanh

9vi-sao-khi-ngu-nhieu-hon-thi-lai-met-hon-meo-ngu-5-phut-tuong-duong-voi-6h6
Lòng bàn tay phải là hỏa, tai phải là nước, thế nằm như trên sẽ hình thành cơ chế thủy hỏa tức tế (thủy hỏa tiếp xúc nhau). Khi đó trên cơ thể hình thành cơ chế tâm thận tương giao. Thời gian lâu có thể dưỡng tâm ích thận. Nhất định phải đi ngủ sớm. Mùa đông không ngủ quá 6 tiếng.Mùa xuân, hạ, thu cần phải tranh thủ ngủ sâu trong 5 tiếng.
Cơ thể người trong cung giờ Dần (3h-5h sáng) là lúc kinh mạch của phổi hoạt động mạnh, đó cũng là thời điểm để rời khỏi giường, lúc đó có thể làm cho khí trong phổi được giãn ra. Cần hít thở dài và chậm để dương khí khi đi vào cơ thể êm thuận, hoàn thành sự trao đổi chất, loại bỏ được hết trọc khí (khí xấu) làm cho phổi được thanh lọc.
Có như vậy thì hỗ trợ và dưỡng phổi thuận theo dương khí từ sự vận động của mặt trời, làm cho cơ thể bắt đầu một ngày mới với dương khí sung mãn. Nếu không cơ thể sẽ mất cơ hội tốt và sẽ rất khó phát động dương khí, dương khí sẽ xuống hạ bộ thân thể, và không thể được sinh ra từ dưới mệnh môn. Như vậy sẽ tạo thành sự mất cân bằng về khí, làm tổn hại đến đến thể chất và tinh thần của bạn.
Thời điểm từ 5h-7h sáng là lúc kinh mạch ở đại tràng hoạt động mạnh nhất. Cơ thể người lúc này cần phải được bài xuất tất cả xú uế ra ngoài. Nếu bạn không thể dậy nổi giường vào lúc này thì đại trạng không kích hoạt đầy đủ và không cách nào hoàn thành tốt công năng trục xuất khí chất thải. Như thế sẽ hình thành độc tố đi vào cơ thể gây nguy hại cho huyết dịch cũng lục phủ ngũ tạng khác.
Từ 7h-9h sáng là lúc kinh mạch ở dạ dày hoạt động mạnh nhất (nhất vượng)
Từ 9h-11h sáng là lúc kinh mạch ở tỳ vị hoạt động mạnh nhất. Lúc này cơ thể người có thể tiêu hóa và hấp thụ dinh dưỡng tốt nhất. Nếu bạn chưa rời khỏi dường thì dịch dạ dày sẽ tích tụ nhiều làm ăn mòn, lở loét dạ dày, cơ thể tại thời điểm hấp thu tốt nhất lại không được tiếp nhận dinh dưỡng. Từ xưa tới nay, việc tích tụ dịch ở dạ dày sẽ gây ra bệnh tật và không thể tiêu hóa tốt, trung khí (khí trong dạ dày) sẽ rối loạn.
Nhất định không được nằm ỳ! Ngủ nướng sẽ khiến bạn bị váng đầu, cảm giác mỏi mệt không chịu nổi, luôn có cảm giác ngủ không đủ. Bạn hãy ứng đúng thời điểm để rời giường. Trong lịch sử có rất nhiều vĩ nhân đều có thói quen dậy từ 3h-4h sáng ví dụ như Washington (Hoa Thịnh Đốn), Cầm Phá Luân, Khang Hi Hoàng đế… Mặt khác, việc dậy sớm có thể gia tăng hiệu quả làm việc, tục ngữ nói: “Ba ngày sáng sớm, một ngày công”.
Y học hiện đại cũng đã chứng minh, người ngủ sớm dậy sớm thường có ít áp lực về tinh thần, không dễ gặp các loại bệnh về tinh thần. Bạn cũng không nên ra ngoài luyện tập lúc quá sớm, bởi vì lúc đó mặt trời chưa mọc, dưới đất các dòng khí xấu (trọc khí) tích tụ trên đường bắt đầu bốc lên. Những khí này có thể gây tổn thương nghiêm trọng tới thân thể.
9vi-sao-khi-ngu-nhieu-hon-thi-lai-met-hon-meo-ngu-5-phut-tuong-duong-voi-6h7
Dưỡng thân thể có 3 việc lớn: một là giấc ngủ, hai là bài tiết, ba là ăn uống. Còn lại, để bắt đầu cuộc sống hàng ngày thì trang phục và các thứ khác chỉ là phụ trợ. Trong 3 việc lớn đó, thì giấc ngủ là đệ nhất. Đối với người mà việc ăn uống vào dạ dày (ẩm thực) không đúng thì buổi tối giấc ngủ không yên, lúc đó hãy cố gắng tập trung vào việc thứ hai đó là bài tiết.
Ăn uống mà không bài tiết thì bụng làm việc quá độ, dạ dày tất nhiên bị tổn thương, hấp thu dinh dưỡng ngày càng giảm. Ngủ phải lấy tinh thần làm chủ, tinh thần phải lấy an tâm làm chủ, tùy theo tuổi tác, người tráng niên ngủ nhiều nhất là 7-8 tiếng, ngủ nhiều thì váng đầu chóng mặt, mặt đỏ mắt trướng, tứ chi mềm nhũn. Trẻ nhỏ có thể ngủ 8-9 tiếng đồng hồ mà không ngại nhưng người già hoặc người bệnh thì ngủ 6 tiếng là đủ.
Giấc ngủ thực sự rất trọng yếu! Vì nó không chỉ làm cho thân thể khỏe mạnh mà còn làm cho tinh thần trở nên phấn chấn.Hãy khởi đầu ngày mới mỹ hảo bằng cách đi ngủ sớm một chút nhé!
——–

27 thg 10, 2015

Thời gian vàng "3 giờ" cứu người đột quỵ não

27/10/2015 09:15 GMT+7
TT - Bệnh viện Trung ương Huế cho biết trên 90% người bị đột quỵ não đến điều trị khi đã quá “thời gian vàng” (được tính là ba giờ).
Ông Nguyễn Văn Lạc (63 tuổi) bị đột quỵ đã được điều trị hồi phục hoàn toàn do người nhà đưa đến bệnh viện cấp cứu sớm - Ảnh: Nguyên Linh
Ông Nguyễn Văn Lạc (63 tuổi) bị đột quỵ đã được điều trị hồi phục hoàn toàn do người nhà đưa đến bệnh viện cấp cứu sớm - Ảnh: Nguyên Linh
 Đến bệnh viện điều trị muộn, bệnh nhân rất dễ tử vong hoặc bị các di chứng như liệt vận động, sống cuộc sống thực vật...
Theo TS.BS Tôn Thất Trí Dũng, phó trưởng khoa nội, phụ trách đơn vị đột quỵ của Trung tâm điều trị theo yêu cầu quốc tế - Bệnh viện Trung ương Huế, nhiều bệnh nhân đột quỵ não (còn gọi là tai biến mạch máu não) đáng lẽ được cứu sống, nhưng do đến bệnh viện quá muộn hoặc nhầm tưởng bị trúng gió nên để ở nhà châm cứu dẫn đến chết oan uổng.
Sơ cứu... chết người
Ông T.T.H. (55 tuổi, ở huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) đang làm ruộng thì bỗng dưng đau đầu, méo miệng, nói không rõ rồi ngất xỉu. Người nhà lầm tưởng ông H. bị trúng gió nên đưa về nhà cạo gió, xoa dầu, châm cứu.
Tuy nhiên, một ngày sau ông H. trở nặng, liệt nửa người và rơi vào hôn mê, lúc này người nhà mới đưa đi Bệnh viện Trung ương Huế cấp cứu. Tại đây, kết quả các xét nghiệm và chụp hình ảnh cho thấy bệnh nhân bị nhồi máu não, giai đoạn muộn. Hậu quả ông H. phải chấp nhận đời sống thực vật.
Hay một bệnh nhân khác là ông P.H.T. (51 tuổi, trú ở Hương Trà, Thừa Thiên - Huế) có tiền sử cao huyết áp. Sau khi đi ăn đám cưới về, ông T. kêu đau nhức đầu, người mệt, tay chân yếu nên người nhà xoa dầu, rồi đắp chăn cho ông nằm ngủ. Người nhà ông T. kể cứ nghĩ ông T. đi đám cưới có uống ít bia rượu nên bị mệt chứ không biết ông bị đột quỵ.
Đến bốn giờ sau, người nhà phát hiện ông T. nằm thiếp li bì, kêu không trả lời, liệt tay chân, sau đó mới đưa ông đi cấp cứu. Khi đến bệnh viện, bác sĩ cho biết ông T. bị xuất huyết não chèn ép các dây thần kinh não gây hôn mê sâu, liệt nửa người. Do đến bệnh viện quá trễ, ông T. đã qua đời sau ba ngày nằm hồi sức cấp cứu.
Những nguy cơ bị đột quỵ não
Bác sĩ Trí Dũng cho biết đột quỵ não có hai loại: nhồi máu não do tắc mạch máu nuôi não (chiếm đến 80%) và xuất huyết não do vỡ mạch máu não (chiếm 20%). Ở Việt Nam đột quỵ não là nguyên nhân tử vong cao nhất, vượt qua cả bệnh ung thư và bệnh lý tim mạch. Mỗi năm cả nước có khoảng 200.000 trường hợp bị đột quỵ não, trong đó 110.000 người tử vong.
Bệnh đột quỵ não thường xảy ra ở người đái tháo đường, cao huyết áp, rối loạn mỡ, béo phì, đặc biệt là người hút nhiều thuốc lá và uống nhiều rượu bia rất dễ vỡ phình mạch máu não...
Bác sĩ Dũng khuyến cáo phải đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng nhanh càng tốt vì trong điều trị đột quỵ não, “thời gian là não - time is brain”, nghĩa là bệnh nhân càng được điều trị sớm thì càng có nhiều tế bào não được cứu sống. Bởi một phút trôi qua sẽ có 2 triệu tế bào não của bệnh nhân đột quỵ bị chết.
“Thời gian vàng” là ba giờ sau khi xảy ra cơn đột quỵ phải đưa đến cơ sở y tế để cấp cứu, điều trị, không được tự ý ấn huyệt, châm cứu, cạo gió, cho bệnh nhân ăn uống, hoặc tự ý cho uống thuốc hạ huyết áp.
Theo bác sĩ Dũng, cách tốt nhất hạn chế đột quỵ là mỗi người phải kiểm soát sức khỏe bằng chế độ ăn uống hợp lý (giảm chất béo, tăng rau xanh, trái cây), hạn chế rượu bia, thuốc lá; tích cực tập thể dục. Nếu có bệnh lý liên quan đến cao huyết áp hay đái tháo đường phải kiểm soát điều trị.
Những dấu hiệu nhận biết
TS.BS Tôn Thất Trí Dũng cho biết dấu hiệu giúp người thân nhận biết người bị đột quỵ não được gói gọn trong chữ “FAST” (viết tắt của chữ Face - Arm - Speech - Time).
Face (khuôn mặt): mặt bị lệch, méo miệng, liệt mặt. Arm (tay): tay chân yếu, tê liệt. Speech (lời nói): nói ngọng, nói lắp, nói không rõ.
Time (thời gian): khi gặp ba dấu hiệu trên cần nhanh chóng chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế đủ điều kiện cấp cứu và điều trị đột quỵ gần nhất.
Ngoài ra, đột quỵ còn có một số dấu hiệu như đột ngột mất thị lực, đau đầu dữ dội, chóng mặt, không thể thực hiện vận động theo ý muốn.
Sống được nhờ cấp cứu sớm
Ngày 8-10, ông Nguyễn Văn Lạc (63 tuổi, trú phường Phú Hiệp, TP Huế), đang chở vợ đi thì đột ngột ngất xỉu, hôn mê, liệt nửa người bên trái. Lập tức người nhà đưa ngay ông Lạc vào cấp cứu ở Bệnh viện Trung ương Huế.
Tại đây, bác sĩ chẩn đoán ông Lạc bị đột quỵ (nhồi máu não cấp), liệt nửa người bên trái, hôn mê sâu. Sau khi điều trị kịp thời, ông Lạc hồi tỉnh và chân tay cử động được.
NGUYÊN LINH, NGUYENLINH@TUOITRE.COM.VN
Ng Quang Vinh lọc tin:

Cuộc đời chúng ta bắt đầu kết thúc kể từ khi chúng ta im lặng cho những điều mà đáng ra chúng ta phải lên tiếng-J.R Martin Luthe King
+Đừng tuỳ tiện phơi bày vết thương của mình cho người khác xem, vì giữa xã hội này, bạn chẳng thể phân biệt rõ ai là người sẽ bôi thuốc cho bạn, ai là người sẽ xát muối nó
+Ngủ cùng nhau thì dễ, thức cùng nhau mới khó / Nói cùng nhau thì dễ, lắng nghe nhau mới khó / Ăn cùng nhau quá dễ, nấu cùng nhau mới khó / Hứa với nhau thì dễ, làm cho nhau mới khó / Đi với nhau thì dễ, dõi theo... khó vô cùng!
+Có một nơi để về đó là nhà/ Có những người để yêu thương đó là gia đình/ Có được cả hai đó là hạnh phúc
+Dù bạn đang ở hoàn cảnh tốt đẹp hay tồi tệ, hãy thức dậy mỗi ngày với niềm vui, hãy biết ơn cuộc sống của mình. Ở nơi nào đó, người khác đang đấu tranh trong tuyệt vọng để giành giật lấy cuộc sống của họ. Thay vì nghĩ về những gì bạn không có, hãy nghĩ về những gì bạn đang có mà người khác không có./ Lọc tin ngày 26/10

26 thg 10, 2015

Cách vượt qua cơn đau tim khi ở một mình

(GDVN) - Đau tim đang ngày càng phổ biến và là nguyên nhân dẫn đến hàng triệu cái chết mối năm và mỗi người nên học cách đối phó với tình trạng này khi chỉ có một mình.
Triệu chứng thông thường
Các cơn đau ngực dữ dội ở trung tâm hoặc bên trái lồng ngực là những dấu hiệu đầu tiên của cơn đau tim. Cơn đau thường kéo dài ít nhất 20 phút và nó sẽ tỏa ra bên trái phía trên cánh tay, cổ hoặc hàm.
Ngoài ra đổ nhiều mồ hôi bất thường và thấy quá tải cũng là triệu chứng không thể bỏ qua, đặc biệt khi bạn đang ở một mình.
Gọi trợ giúp
Nếu bạn đang trải qua cơn đau tim khi ở một mình thì việc đầu tiên bạn nên cố gắng là gượng dậy cố gọi cho ai đó. Trong trường hợp đang lái xe, hãy tấp vào lề đường và tìm sự trợ giúp xung quanh.
Uống Aspirin
Những nghiên cứu lớn đã chỉ ra rằng việc uống 1 viên thuốc aspirin có thể giúp bạn nâng cao khả năng sống sót.
Cố gắng ho mạnh
Một trong những thủ thuật ít người biết để vượt qua cơn đau tim đó là cố gắng ho dữ dội. Hãy hít thật sâu sau đó ho thật mạnh và liên tục mỗi 2 giây.
Tạo áp lực lên tim
Để giúp tim trở lại khôi phục lại nhịp đập ban đầu có thể dùng tay tạo áp lực lên tim. 
MINH THU (theo BOLD SKY)