Người Việt mình cần mẫn, lạc quan
Tác giả: Đào Dục Tú
KD: Người Việt không cần mẫn lạc quan, không thể trụ được ở vùng đất địa chính trị cổ kim quá nhiều áp lực ngoại xâm cường bạo, nội xâm đen tối ; vùng đất địa tự nhiên quá lắm thiên tai dữ dằn. Cần mẫn lạc quan để tồn tại và phát triển (ĐDT).
Cảm ơn anh Đào Dục Tú
———–
Ngày xưa khi mà khí hậu trái đất chưa oái oăm, tầng ô-zôn chưa rách toác như bây giờ, tháng bảy âm lịch đúng tiết là mưa ngâu, là “mưa dầm sùi sụt”. Mưa ngâu thì người đã luống tuổi ở thời a-còng mấy ai không biết.Vợ chồng Ngâu bị “thiên đình phạt tội” chi đó, chỉ được phép một năm gặp mặt nhau một lần vào tháng bảy này, qua cây cầu Ô Thước do quạ nhà trời bắc.
Thu Hà nội. Nguồn trên mạng
Dù có là vợ chồng người giời đi nữa ,đấy cũng là hình phạt quá cỡ thợ mộc, ai mà chịu được. Thế nên bao nhiêu nước mắt của đôi vợ chồng này chỉ chờ tháng bảy âm lịch hàng năm là đổ xuống xứ sở hình chữ “ét-sờ” nhiệt đới gió mùa.
Người viết nhớ ngày. . . còn thơ bé ,có những năm tháng ngâu mưa nát đất thối cỏ,mưa suốt ngày này sang ngày khác, các đám mây sũng nước đùn lên từ chân trời liên tục kéo về che kín , che mờ cả thanh thiên bạch nhật mùa thu. Đã thế theo tục truyền, tháng bảy là tháng cúng cô hồn, là có ngày lễ trọng rằm tháng bảy xá tội vong nhân. Người đời dù mưu sinh chật vật đến đâu cũng lo sắm sanh lễ mọn, đặc biệt là quần áo vàng mã “hóa vàng “dâng cúng ông bà tổ tiên cùng đủ thứ đồ ăn nhà nghèo như bỏng ngô hay cháo lá đa cúng “thập loại chúng sinh” cô hồn ở những bãi tha ma cô quạnh sùi sụt mưa ngâu.
Tháng bảy ngày xưa buồn thê thiết. Trái ngược hẳn với tháng bảy thời a-còng. Nắng như đổ lửa, đúng là “nắng tháng tám rám trái bưởi”. Vợ chồng Ngâu cùng với ngàn vạn cô hồn thập loại chúng sinh trong văn tế của cụ Nguyễn Tiên Điền chốn chạy đâu mất giữa cái nắng chói chang từ bảnh mắt đến gần bảy giờ chiều. Bỗng lại muốn…. múa bút.
Khởi hứng bắt đầu là bài thơ đăng trong sách Quốc văn giáo khoa thư mấy mươi năm đầu thế kỷ trước. Không ít người cao tuổi trải qua hai chế độ phong kiến già cỗi ngàn tuổi rồi dân chủ cộng hòa non trẻ, trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc “chống hai đế quốc to” thực dân cũ thực dân mới vô cùng khốc liệt kéo dài, nay vẫn còn nhớ. Bài thơ kể về cuộc mưu sinh buôn bán chợ búa cùng thời gian thư giãn của người Việt ở thời kỳ lịch sử phong kiến cộng tiểu nông cá thể hết sức nghèo khó lạc hậu ngày xưa.
Ấy thế mà các cụ nhà ta vẫn quyết thực hiện: “Tháng giêng là tháng ăn chơi – Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè”. Lịch nhà nông, tháng giêng khởi đầu là Tết nguyên đán, là cung đoạn thời gian nông nhàn nhàn hạ nhất , cùng với Tết nguyên tiêu dân Việt xem như ngày “lễ trọng” “cúng bái quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Còn tháng hai, các cụ ngày xưa nói toạc móng heo ra là tháng cờ bạc ; nhưng cờ bạc chủ yếu như là một trò giải trí dân gian phổ biến làng trên xóm dưới nam phụ lão ấu chứ không phải là trò đỏ đen tệ nạn xã hội.
Chợt nhớ bài thơ nói chuyện đánh tam cúc của thi sĩ Kinh Bắc- Hoàng Cầm “em đừng lớn nữa chị đừng đi” để mãi mãi có cái “ổ rơm thơm đọng thủa đương thì”. Hết tháng hai cờ bạc tiếp đến tháng ba hội hè. Chưa có mùa nào như mùa xuân xứ bắc, hầu như làng nào cũng mở hội đình đám , phần lễ tôn vinh thành hoàng, phần hội đủ các trò vui , trò chơi để đông đảo người áo ngắn quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời có dịp nghỉ xả hơi, thi thố tài đánh đu, chọi gà ,cờ tướng, kéo co hay bắt vịt, đập nồi.
Sau tháng ba là lần lượt các tháng mùa hè mà tháng nào cũng có một thứ thời trân tứ quý. Này nhé : “ Tháng tư đong đậu nấu chè-Ăn Tết đoan ngọ trở về tháng năm-Tháng sáu buôn nhãn bán trăm”. Dân Việt thoạt kỳ thủy lấy nông gia cơ bản,vất vả,lam lũ, thiếu khó đủ đường, thì những món ăn như chè đậu đen,đậu xanh ,như nhãn lồng Hưng Yên, hồng ngâm Lạng Sơn ăn với chuối tiêu trứng cuốc cũng là đặc sản quý hiếm chứ sao.
Sang mùa thu : “ Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân- Tháng tám chơi đèn kéo quân-Trở về tháng chín chung chân buôn hồng” . Vào cữ tháng bảy âm lịch, tháng ngày xưa mưa ngâu sùi sụt có một ngày được người Việt hết sức coi trọng theo mỹ tục xưa là nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ đã khuất núi; lo nghĩ cho tới cả những cô hồn không nơi nương thân, không ai nhang khói. Ấy là ngày xá tội vong nhân,ngày rằm tháng bảy. Nhà nhà cũng giỗ ,người người cúng cháo lá đa ngoài ngõ ngoài đường.
Hết tháng bảy mưa dầm sùi sụt là tháng tám trăng thanh gió mát đẹp nhất mùa thu, có tết trung thu giành cho con trẻ chơi đèn kéo quân trông trăng phá cỗ. Để rồi sang tháng chín ,mấy bà mấy chị chung tiền rủ nhau lên Lạng Sơn ,lên miền ngược buôn hồng cho ngày thu Hà Nội, ngày thu miền xuôi người mình có hồng chín đỏ ăn với cốm làng Vòng, ăn với chuối trứng cuốc.
“Sầu dài ngày ngắn” mùa đông tới ngày xưa là hai tháng rét nhất trong năm : “ Tháng mười tháng một buôn bông”. Buôn bông để cho người có chăn êm nệm ấm, cho những lứa đôi mùa tân hôn quấn quýt bên nhau. Thế là hết công đoạn làm ăn buôn bán, ăn chơi trong suốt mười một tháng . Còn cái tháng chạp cuối cùng bản lề năm cũ năm mới, tác giả bài thơ khuyết danh hạ một câu ẩn chứa niềm vui hể hả : “Trở về tháng chạp nên công hoàn toàn ! “ Cái sự nên công ấy như là điềm lành để cung chúc tân xuân.
Thơ lục bát quen thuộc giản dị, giản dị đến mức hầu như không có một “gia công nghệ thuật” ngôn từ nào; không có một biện pháp tu từ nghệ thuật nào, chỉ thuần là tính xác thực của sự thực! Mà sao không ít người cao tuổi ngày xưa đã đi học trường làng trường huyện cắp cuốn sách Quốc văn giáo khoa thư vẫn cứ nhớ thuộc lòng. Lạ quá! Hình như tinh thần lạc quan vui sống hàm chứa trong bài thơ kể lể việc đời này của người Việt thủa nào vẫn đủ sức đeo bám trí nhớ , đeo đẳng trong ký ức họ. Nên tôi đặt tên cho bài tạp cảm này là “ người Việt mình cần mẫn lạc quan”.
Suy ngẫm lịch sử dân tộc mình, tôi tin đấy chính là một nét diện mạo tinh thần Việt, một hằng số, cho dù sông có thể cạn núi có thể mòn , tính cách ấy cũng không dời đổi. Bởi một lẽ giản dị: người Việt không cần mẫn lạc quan, không thể trụ được ở vùng đất địa chính trị cổ kim quá nhiều áp lực ngoại xâm cường bạo, nội xâm đen tối ; vùng đất địa tự nhiên quá lắm thiên tai dữ dằn. Cần mẫn lạc quan để tồn tại và phát triển. Để từ thủơ khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cách đây 70 năm, đất nước này có tên trên bản đồ thế giới ! . / .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét